Đức Phật dạy Tu Thanh Tịnh Thiền

ĐỨC PHẬT DẠY TU THANH TỊNH THIỀN
Sau khi Đức Phật giảng xong kinh Diệu Pháp Liên Hoa, nhiều vị nhận được ý sâu mầu của Ngài dạy, cũng có nhiều vị chưa nhận ra. Do đó, ông A-nan-đà có trình thưa với Đức Phật như sau:
Kính bạch Đức Thế Tôn; trong 28 phẩm của kinh Diệu Pháp Liên Hoa, Như Lai dạy phần nhiều là ẩn ý nên phần đông chúng con có người nhận ra yếu chỉ sâu mầu Như Lai dạy, cũng có rất nhiều người chưa nhận ra. Con là người gần gũi Thế Tôn, cũng là người nhớ dai nhất nên con được hầu hết mọi người có mặt hôm nay yêu cầu con trình thưa hỏi Đức Thế Tôn về Pháp môn tu Thanh Tịnh Thiền. Trước Tiên để những người chưa nhận ra được ý sâu mầu Đức Thế Tôn dạy, họ biết được. Sau đó, con xin ghi chép lại lưu truyền cho hậu thế biết Pháp môn Thanh Tịnh Thiền này, kính xin Đức Thế Tôn dạy chúng con.
Đức Phật khen ông A-nan-đà và đại chúng:
Này đại chúng và ông A-nan-đà: các ông hỏi rất đúng lúc. Đây là câu hỏi then chốt để những người tu theo đạo Thiền Thanh Tịnh của Như Lai dạy, mà muốn tìm đường về nguồn cội của chính mình. Nếu các ông không hỏi thì Như Lai cũng không nói.
Vì sao Như Lai không nói?
Vì Pháp môn tu Thanh Tịnh Thiền này là Tối thượng, Tối tôn, Tối mật. Nếu các ông không hỏi thì Như Lai không nói.
Vì sao vậy?
Vì Pháp môn này không thể nói bừa bãi được. Suốt mấy năm sau cùng Như Lai dạy kinh Diệu Pháp Liên Hoa, không ai hỏi Pháp môn này cả. Họ chỉ đến nghe Như Lai nói rồi ra về, nếu có hỏi là hỏi những câu còn trong Luân hồi Vật lý. Không có ai hỏi chỗ sâu mầu để vượt ra ngoài sự cuốn hút Nhân – Quả Luân hồi của Thế Giới Vật lý Âm – Dương này. Tất cả những người đến nghe Như Lai nói kinh Diệu Pháp Liên Hoa.
Họ chán bỏ đi rất đông, không ở lại nghe. Vì vậy Pháp môn Tối thượng, Tối tôn, Tối mật này phải có người thỉnh và cầu xin thì Như Lai mới nói.
Hôm nay, duyên lớn, Phước lớn của ông bà có mặt ở đây, cũng là Phước lớn cho hậu thế nhiều đời sau nên ông Ananda thay mặt ông bà, hỏi Như Lai Pháp môn Thanh Tịnh Thiền này. Như Lai sẽ dạy và huyền ký cho các ông bà biết:
Đức Phật hỏi ông A-nan-đà và đại chúng:
Vậy, mục đích của ông bà muốn tu Thanh Tịnh Thiền để làm gì?
Ông A-nan-đà và đại chúng trả lời:
Dạ, chúng con tu Thanh Tịnh Thiền là muốn Giải Thoát.
Đức Phật lại hỏi:
Các ông bà dám tu Thanh Tịnh Thiền không? Vì sao Như Lai hỏi ông bà như vậy?
Vì người tu Pháp môn Thanh Tịnh Thiền phải vô trụ với vật chất. Nếu các ông bà vô trụ được thì Như Lai sẽ dạy, còn không vô trụ được thì Như Lai không dạy. Tất cả những người có mặt, ai ai cũng đồng thanh nói:
Dạ, chúng con vô trụ được, kính xin Đức Thế Tôn dạy chúng con.
Đức Phật nghe đại chúng khẩn xin dạy Pháp môn Thanh Tịnh Thiền nên Đức Phật dạy:
Các ông bà muốn tu Thanh Tịnh Thiền thì trước hết phải rõ bốn điều như sau:
1. Mục đích tu Thanh Tịnh Thiền để được cái gì?
2. Phải hiểu nơi mình muốn đến là ở đâu?
3. Tánh Phật của mình cấu tạo ra sao?
4. Tánh người của mình có sao phải tường?
Bốn căn bản nói trên, ông bà nào biết đưa tay lên:
Liền khi đó, ông Tỳ kheo Lảnh An Huy, đưa tay lên, nói là ông biết. Đức Phật liền bảo ông:
Nếu ông biết, hãy ra trước Như Lai, trình cho Như Lai và đại chúng nghe coi có đúng không?
Ông Tỳ kheo Lảnh An Huy liền ra trước Đức Phật, quỳ gối, chắp tay thưa trình cùng Đức Phật rằng:
Kính bạch Đức Thế Tôn, con xin trình 4 câu hỏi mà Đức Thế Tôn đã hỏi chúng con:
Câu một: Mục đích của chúng con tu Thanh Tịnh Thiền là để Giác Ngộ và Giải Thoát.
Câu hai: Nơi mà chúng con muốn đến là Bể Tánh Thanh Tịnh, tức nơi Mười phương chư Phật sống.
Câu ba: Tánh Phật tự nhiên có 4 thứ : Thấy, Nghe, Nói và Biết.
Câu bốn: Tánh Người của chúng con có đến 16 thứ: Thọ, Tưởng, Hành, Thức, Tài, Sắc, Danh, Thực, Thùy, Tham, Sân, Si, Mạn, Nghi, Ác, Kiến.
Tánh người của chúng con có 16 thứ nói trên. Đã vậy, bên ngoài Tánh Người của chúng con còn có thêm 8 muôn 4 ngàn cái bong bóng ảo giác do Điện từ Âm – Dương bao phủ nữa nên chúng con không biết được đường trở về nguồn cội của chúng con. Vậy, chúng con kính xin Đức Thế Tôn dạy chúng con Công thức vượt ra ngoài sinh tử Luân hồi nơi Thế Giới này, chúng con xin cảm ơn Đức Thế Tôn. Ông nói xong, liền lạy Đức Phật.
Đức Phật dạy ông Lảnh An Huy và đại chúng:
Này Tỳ kheo Lảnh An Huy và đại chúng. Bốn câu hỏi của Như Lai hỏi, ông Lảnh An Huy đã trả lời rất chính xác.
Đức Phật liền nhìn qua hết đại chúng, rồi nhìn sang ông Duy Ma Cật nói tiếp như sau:
Căn bản ông Tỳ kheo Lảnh An Huy đã nói rồi. Vậy, ở đây có ai biết Công thức tu Thanh Tịnh Thiền không?
Đức Phật đợi một hồi lâu mà không có ai đưa tay lên nên Đức Phật nói với ông Duy Ma Cật:
Này ông Duy Ma Cật: hôm nay có ông ở đây, vậy ông hãy nói cho mọi người biết Công thức tu Thanh Tịnh Thiền để thoát ra ngoài Nhân – Quả Luân hồi của Vật lý Âm – Dương này, để mọi người biết mà tu tập.
Vâng lời Đức Phật, ông Duy Ma Cật liền đứng dậy, ra trước Đức Phật quỳ gối, chắp tay bạch cùng Đức Phật:
Kính bạch Đức Thế Tôn, con là hàng cư sỹ, theo khuôn phép, con không được phép đứng trước các vị Tỳ kheo và đại chúng nói Công thức tu Thanh Tịnh Thiền và Công thức Giải Thoát nhưng Đức Thế Tôn cho phép con nói nên con trình bày Pháp môn Thanh Tịnh Thiền và Công thức Giải Thoát để quý vị nghe.
Ông Duy Ma Cật nói:
Người muốn tu Thanh Tịnh Thiền và biết Công thức Giải Thoát thì phải hiểu căn bản như sau:
Trong Tánh Phật có cái Ý và 4 thứ: Thấy, Nghe, Nói, Biết. Tất cả đều Thanh Tịnh, do Điện từ Quang bao bọc thành một khối rất nhỏ, gọi là “Phật Tánh”.
Phật Tánh này, lúc đầu ở trong Phật giới, nhìn vào trong Thế Giới loài người thấy lạ nên tìm đường vào xem thử. Khi di chuyển vòng quanh Thế Giới loài người thấy có cái cửa, vừa đến gần, bất ngờ Phật Tánh bị hút vào Thế Giới loài người. Cửa này là “Cửa Hải Triều Âm” có 2 nhiệm vụ:
– Chuyên hút Phật Tánh từ Bể Tánh Thanh Tịnh vào Thế Giới loài người.
– Chuyên hút Trung ấm thân, bị Luân hồi trong các cõi trở lại Thế Giới loài người để luân chuyển đi trong 6 cõi.
Khi Phật Tánh bị hút vào Thế Giới loài người, cứ quanh quẩn nơi Thế Giới này hoài. Sau cùng gặp một đôi nam nữ đang giao hợp. Phật Tánh mới đến gần nhìn, bất ngờ bị Điện từ Âm – Dương của đôi nam nữ này, hút Phật Tánh vào đường tối đen (âm đạo) và đưa vào tử cung của người nữ, ngủ suốt 9 tháng 10 ngày.
Sau đó, Phật Tánh bị dính vào thai nhi. Khi thai nhi được sinh ra thành 1 đứa trẻ, dần dần thành một người trưởng thành. Phật Tánh bị dính vào da thịt của con người. Con người có cái Tánh gọi là “Tánh Người”. Tánh Người có cái vỏ bọc, cấu tạo bằng Điện từ Âm – Dương, bao bọc toàn thân con người lại. Tánh người có 16 thứ như ông Tỳ kheo Lảnh An Huy đã trình bày.
Thế Giới loài người là trung tâm vận hành Luân hồi, có 2 cửa như sau:
– Cửa Hải Triều Âm: nhiệm vụ như tôi đã trình bày ở trên
– Cửa Hải Triều Dương: chỉ có một nhiệm vụ là đẩy Phật Tánh ra ngoài Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi, để trở về Phật giới.
Trên đây là 2 cửa của Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi nơi Thế Giới này.
Ở đây, vị nào muốn thoát ra ngoài Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi thì phải hiểu rõ 4 phần như sau:
Phần một: Phải biết và thực hiện ba phần: Thanh Tịnh, Rỗng Lặng, Hằng Tri. Tôi xin giải thích như sau:
Thanh Tịnh: Tức không suy nghĩ, có công dụng như sau. Khi suy nghĩ thì cái chông gai của suy nghĩ nhô lên nên dòng quét của Điện từ Âm – Dương kéo cái suy nghĩ của mình đến chỗ mình suy nghĩ. Đây là nguyên nhân bị Luân hồi. Nếu tập được hằng Thanh Tịnh thì dòng Điện từ Âm – Dương không có gì để quét đi nên không bị Luân hồi.
Rỗng Lặng: Tức tập cho thân và tâm ở trạng thái không trọng lượng, Điện từ Âm – Dương không hút được.
Nhờ vậy, thân tâm được dần dần trôi vào Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi. Khi thân tâm vào đúng trục Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi rồi thì không bị dòng quét của Điện từ Âm – Dương hút nữa.
Ai tập được như vậy thì thân tâm mình tự dưng như không có. Vì sao có trạng thái này?
Vì khi thân tâm vào được Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi rồi. Nó không còn bị hút bởi Vật lý Âm – Dương nên thân tâm tự nhiên rơi vào trạng thái như không trọng lượng. Vị nào tu tập đến trạng thái này, gọi là đạt được “Bí mật Thanh Tịnh Thiền”.
Hằng Tri: Khi tu tập được hai phần nói trên mà tâm lúc nào cũng Hằng Tri; nhờ cái Hằng Tri này mới biết được 4 phần:
– Biết Phật Tánh của mình không dính với vọng Tưởng của Tánh Người.
– Biết thân tâm mình không bị sức hút của Điện từ Âm – Dương.
– Biết mình đang ở Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi.
– Mình nhìn thấy được cửa Hải Triều Dương, là cửa trở về Phật giới.
Người tu Thanh Tịnh Thiền đạt được 4 phần nói trên, mới được tự tại thôi, chứ Giải Thoát thì chưa được. Vì sao vậy?
Vì còn thiếu phương tiện để thoát ra ngoài Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi. Phương tiện ấy là gì?
Là Công đức đó.
Nói như người Thế gian thì Công đức giống vàng hay tiền vậy.
Ví dụ: mình chuẩn bị hết các phần để đi đâu đó nhưng không có tiền thì không đi được.
Vì vậy, người nào muốn thoát ra ngoài Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi thì phải có Công đức ít hay nhiều.
Phần hai: Vị nào muốn tạo ra Công đức, phải biết bốn việc như sau:
1. Giúp cho người khác biết được Pháp môn Thanh Tịnh Thiền. Người đó phải thực hiện được thành công thì mình mới có Công đức.
2. Số Công đức mình tạo ra đó, được lưu giữ trong vỏ bọc của Tánh Phật.
3. Công đức là loại cực dương và rất nặng.
4. Tánh Phật của mỗi người đang bị vỏ bọc Tánh Người giam giữ lại. Vì vỏ bọc Tánh Người là cực âm và liên tục co bóp theo chu kỳ của Điện từ Âm – Dương. Chu kỳ này chính là nhịp tim của mỗi người.
Quả tim co bóp có 2 nhiệm vụ:
➢ Cho máu tuần hoàn khắp châu thân để nuôi sống thân Tứ Đại này.
➢ Để cho 16 thứ của Tánh Người luôn hoạt động. Nhờ 16 thứ của Tánh Người luôn hoạt động nên mới sinh ra 8 muôn 4 ngàn bong bóng ảo giác, để cho Tánh Phật không còn Thấy, Nghe, Nói, Biết Thanh Tịnh nữa.
Nhờ cái ảo giác này, con người sử dụng cái Tưởng mới hiệu quả như:
– Tưởng: ông này, bà kia làm ra Vũ Trụ và vạn vật.
– Tưởng: cầu lạy ai đó, họ đổ Phước vào đầu mình.
– Tưởng: cầu xin ai đó, họ đem mình đến nơi hưởng sung sướng.
– Tưởng: dụng công ngồi Thiền cho thật niêm mật sẽ được Giác Ngộ, Giải Thoát.
Vì cái Tưởng này mà nó dẫn Phật Tánh đi 6 nẻo Luân hồi không có ngày cùng.
Vì cái Tưởng này mà người khôn lanh bịa ra không biết bao nhiêu việc lừa người ngu khờ dại dột, để họ ngồi mát ăn bát vàng.
Phần ba: Mục đích của người tu theo Thanh Tịnh Thiền là không dính với cái Tưởng của Tánh Người. Đồng nghĩa, Tánh Người Tưởng ra bao nhiêu kệ nó, mình đừng chạy theo nó. Ông Duy Ma Cật nhấn rõ cái Tưởng này:
Cái Tưởng là của Tánh Người
Tưởng tượng muôn điều, không dính là an
Theo Tưởng là phải gian nan
Không theo vọng Tưởng về sang quê mình.
 
Phần bốn: Tánh Phật được tự do thoát ra ngoài Trung tâm vận hành Nhân – Quả Luân hồi để trở về Phật giới.
Đây là Công thức tuyệt mật mà từ trước tới nay chưa dạy chỗ đông người. Hôm nay, duyên lành của quý ông bà, nhờ ông Ananda hỏi nên Đức Thế Tôn mới bảo tôi nói chỗ tuyệt mật này.
Ông Duy Ma Cật chấp tay nhìn Đức Phật và trình nói:
Kính bạch Đức Thế Tôn: Phần nói căn bản của Pháp môn Thanh Tịnh Thiền con đã trình bày xong, kính xin Đức Thế Tôn kiểm chứng cho con. Còn về phần vượt Hải Triều Dương về Phật giới, con không dám trình bày. Vậy, kính xin Đức Thế Tôn dạy cho đại chúng và ông Ananda biết. Kính xin Đức Thế Tôn chấp nhận lời thỉnh cầu của con.
Đức Phật có lời khen ông Duy Ma Cật và dạy như sau:
Này ông Duy Ma Cật: Như Lai có lời khen ông và xác nhận ông đã trình bày thật rõ ràng và rành mạch về Pháp môn Thanh Tịnh Thiền này.
 
 
TRÍCH: ĐỨC PHẬT DẠY TU THIỀN TÔNG (QUYỂN 7)
TÁC GIẢ: THIỀN GIA – SOẠN GIẢ NGUYỄN NHÂN