Anh Nguyễn Bạch Đằng hỏi

Câu 11: Phật Tánh không cần nhận ra; Mà chỉ cần học biết Phật Tánh là 4 thứ: Thấy, Nghe, Nói, Biết, Thanh Tịnh Không dính với trần cảnh đó là Phật Tánh; còn dính với trần cảnh là Tánh của con người.
Về việc giúp đỡ: Của Tánh Phật và Tánh người, phải hiểu như sau:
1/- Tánh Phật: Duy nhứt chỉ giúp cho ai muốn Giác Ngộ và Giải Thoát để vượt ra ngoài sức hút của vật lý Âm Dương; chứ Đức Phật không giúp ai hướng thượng hay làm từ thiện cả.
2/- Tánh người: – Khuyên người khác làm từ thiện.
– Ăn ở hiền lành.
– Làm những chuyện tốt.
– Không vi phạm pháp luật. V.v…
 
Câu 12:
– Tánh Phật là, Nghe, Thấy, Nói, Biết, trong Thanh Tịnh.
– Tánh người là, Phải, quấy, hơn, thua, tốt xấu. V.v…
 
Câu 13: Tánh người không cần nhận ra để biết, mà chỉ cần học để biết thôi.
Còn 8 muôn 4 ngàn cái bong bóng ảo giác nó được tạo ra như sau:
– Điện Âm: Bóp quả Tim co lại, để đẩy máu lưu thông đi khắp châu thân.
– Điện Dương: Kéo quả Tim nở ra, để hót máu khắp châu Thân về quả Tim.
– Khi quả Tim co nở như vậy, máu trong quả Tim nải ra những bong bóng; Những cái bong bóng này là do màu sắc của Điện từ Âm – Dương bao phủ lên thành có ảo giác. Mà Tánh Thấy của Phật Tánh thấy, xuất phát từ Trung tâm não bộ phát ra, phải xuyên qua Tim, người Trung Quốc gọi là Tâm. Vì Tánh Thấy này phải xuyên qua Tâm, trong Tâm này là 1 khối bong bóng lao xao. Chính cái bong bóng lao xao này, nó tạo ra những thứ ảo giác. Vì vậy, Tánh Thấy của Tánh Phật không còn trung thực được nữa. Vi không biết đâu là chân thật, nên con người phải đem cái Tưởng ra để tưởng tượng. Vì chỗ tưởng tưởng này, mà mỗi người tưởng tượng ra mỗi cách, giống như 5 anh mù rờ voi vậy, nhưng ai cũng cho mình là đúng cả.
Đức Phật dạy:
– Ai muốn biết được sự thật, thì phải tu tập Thanh Tịnh thiền, khi nào được “Rơi vào Trung tâm vận hành luân hồi” thì tự mình biết, không cần ai chi phần này cả.
 
Câu 14: Muốn hằng Tri, thì tập cho Tâm Vật lý đừng dính vào cảnh. Khi nào Tâm và Cảnh không dính nhau ỉà thấy “Hằng Tri” ngay.
 
Câu 15: Vỏ bọc Tánh người không thuần phục nó được, mà chỉ cần tạo ra thật nhiều Công đức, để số Công đức này lưu vào vỏ bọc của Tánh Phật. Khi trong vỏ bọc của Tánh Phật có nhiều Công đức rồi, thì Tánh người tự động nhả Tánh Phật ra. Lúc này Tánh Phật được tự tại, muốn vào Phật giới cũng được hay ở tự do trong Tánh người để giúp nhiều người khác Giải Thoát cũng được.
 
Câu 16: Phật lớn, Phật vừa hay Phật nhỏ, là do số Công đức của vị Phật đó khi còn sống nơi Thế Giới loài người tạo ra như:
– Tạo Công đức vô lượng, thì “Ngôi nhà Pháp Thân Thanh Tịnh” của vị này được thật lớn, theo số Công đức của vị Phật ấy tạo ra. Cũng từ Ngôi nhà Pháp Thân Thanh Tịnh này, định hình ra một vị Phật vừa với Ngôi nhà Pháp Thân của vị Phật ấy, Vì chỗ sai biệt Công đức này, nên vị Phật có lớn hay nhỏ là vậy.
 
Câu 17: Không tập như thế nào cả, mà chỉ học hỏi để biết như sau:
1/- Tánh Phật là Thấy, Nghe, Nói, Biết Thanh Tịnh.
2/- Tánh người là Thấy, Nghe, Nói, Biết dính với trần cảnh.
Hãy nghe lời dạy của Như Lai:
Phật Tánh Thanh Tịnh Thấy, Nghe
Thấy, Nghe như vậy không bè trầm luân
Thấy, Nghe như vậy là “Dừng”
Phật Tánh hiển lộ không mừng không vui.
 
Tánh người, mười sáu cái “Tôi”
Dính cứng trần cảnh luân hồi kéo đi
Thiền Thanh Phật dạy để chi
Không dính không mắc không đi luân hồi.
 
Như Lai chỉ dạy chữ “Thôi”
“Thôi” đi tất cả luân hồi bỏ ta
Thiền Thanh của Phật Thích Ca
Là “Thiền một chữ” thoát ra luân hồi.
 
Câu 18: Thiện ác là do cái “Tưởng” của Tánh người do Tánh Phật sử dụng mà có, đây là quy luật tự nhiên nơi Thế Giới này. Cũng vì cái Tưởng này, nên con người phải làm theo luân chuyển của vật lý, do đó:
1/- Người tu hành muốn tìm ra Phật Tánh họ phải “Tưởng tượng”:
A- Nhập Thất dụng công tu hành cho lòi ra Phật Tánh.
B- Lên non dụng công tu hành cho lòi ra Phật Tánh.
C- Dụng công tọa Thiền ép cho Tâm Thanh Tịnh để Phật Tánh hiển lộ. V.v…
Khi dụng công tu hành, tức nhiên những hiện tượng vật lý hiển lộ ra, rồi nói là đắc Đạo, đi lường gạt người này người kia để kiếm danh và tiền. Đây là Tánh của con người vậy.
Ví dụ:
– Tánh người: Khi thấy hay nghe liền Tưởng nên phân biệt, tiếp theo đó là nói đúng hoặc sai. Đúng sai là của luân chuyển nơi Thế Giới này, gọi là đúng sai trong đối đải không đúng lẽ thật được.
– Tánh Phật: Hằng Thấy, Nghe, Nói là Biết. Cái Biết này là tự nhiên biết, nên gọi là cái “Biết Chân Như Thanh Tịnh”; Mà con người gọi là Tánh Phật biết.
 
Câu 19: Bi, Trí, Dũng là do cái Tánh của con người Tưởng tượng ra, chớ trong Phật Tánh không có 3 thứ này. Trong Phật Tánh chỉ có 4 thứ là hằng: Thấy, Nghe, Nói và Biết thôi.
 
Câu 20: Luật Nhân – Quả Luân hồi nơi Thế gian có tất cả là 6 đường chia ra 2 chiều Dương và Âm:
Dương có 1 đường và 4 ngã rẽ:
– Ngã một, là đi vào 11 Cõi Trời Vô sắc.
– Ngã hai, là đi vào 11 Cõi Trời Hữu sắc.
– Ngã ba, là đi vào 6 nước Cực Lạc.
– Ngã tư, là đi vào 11 Cõi Trời Dục Giới.
Âm là nơi Địa cầu này, có 5 lối vào:
– Lối 1: Vào các loài Thần.
– Lối 2: Vào các loài Người.
– Lối 3: Vào các loài Ngạ Quỷ.
– Lối 4: Vào các loài Súc Sanh.
– Lối 5: Vào 18 tầng Địa Ngục.
 
Câu 21: Hiện tượng ” Điển quang” của thiên nhiên
– Câu này phải hỏi như sau: Hiện tượng cải dụng của Điện từ Am Dương nơi Thế Giới này, hiểu biết theo Thiền Tông như thế nào?
– Theo Thiền Tông: Những hiện tượng xảy ra do Điện từ Âm – Dương, đây gọi là biến chuyển của vật lý; Mà cải chánh của biến chuyên vật lý là do Điện từ Âm – Dương luân chuyển kéo tứ đại biến chuyển theo, tạo ra những hiện tượng lạ.
Nhờ vậy: Loài Thần nương theo chỗ biến chuyển này, nói chỗ hiểu biết của loài Thần. Người nào nghe được loài Thần nói, thì người đó phải có tần số Điện từ Dương gần ngang bàng với loài Thần thì mới nghe được.
 
Câu 22: Nhờ cái dụng của Điện từ Âm – Dương này, nên các vị Thần, nương ánh sáng, gởi tiếng nói của họ đến cho loài người nghe.Những người nghe được tiếng nói này, là những người có tần số Điện từ Dương gần ngang bàng với tần số của những vị Thần.
Những vị Thần làm được 2 phần như sau:
Một là, họ nhìn thấy tương lai gần của cá nhân hay của 1 vùng đất nào đó.
Hai là, họ rất rành các kinh nói trong luân hồi của vật lý; Nhất là các kinh Tiểu thừa và Trung thừa, chớ Thiền Tông thì hoàn toàn họ không biết được.
Vì sao vậy?
– Vì tần Số của Thiền Tông là “Cực Dương”, tức cực mạnh, nên họ không dám lại gần, chớ nói chi là học hỏi.
 
Câu 23: Muốn Tánh người nhả Tánh Phật ra, duy nhối ỉà tạo ra Công đức để lưu vào vỏ bọc Tánh Phật:
– Ít thì Tánh người thả lỏng Tánh Phật ra.
– Còn nhiều và vô lượng, thì Tánh Phật được tự tại, tức tự do. Lúc này, Tánh Phật làm chủ được vỏ bọc Tánh người, và sử dụng Tánh người làm công cụ cho Tánh Phật tạm thời sử dụng. Hay nói cho chính xác, Tánh Phật sử dụng vỏ bọc và tứ đại của Tánh người làm phương tiện để Tánh Phật làm việc, giúp cho ỉoài người ai muốn Giải Thoát, hãy đến với Tánh Phật núp trong Tánh phàm phu này mà học Đạo Giải Thoát
Đức Phật dạy rất kỹ người Phàm phu này:
– Vị Phàm phu nào được Tánh Phật nương vào, không cho ai biết, nếu cho ai biết, thì Tánh Phật liền bỏ Tánh Phàm phu này ngay, còn hậu quả như thế nào Nhu Lai không nổi. Vì vậy, người Phàm phu nào được may mắn như vậy, tự lo liệu lấy.
Còn về tạo ra Công đức:
– Duy nhất chỉ có một cách thôi, không có phương cách nào thay thế được. Sở dĩ, từ xưa đến nay, có nhiều vị dạy cho loài người Giải Thoát, là vì họ cũng có nhiệt tình, nhưng vì họ không biết được “Công thức Giải Thoát của Thiền Tông”, nên họ Tưởng tượng ra dạy con người. Vì không biết nên họ dạy sai.
 
Câu 24: Thiền Tông không tinh thần, không lý luận, không dung hòa và cũng không bình đẵng. Mà mục đích cùa Thiền Tông Đức Phật dạy ra có 2 mục đích chánh:
Một là, vị nào muốn Giải Thoát ra ngoài Nhân – Quả Luân hồi của Thế Giới vật lý Âm Dương này, thì phải biết 2 phần như sau:
Một: Trực nhận 1 trong 4 thứ của Tánh Phật và luôn sống với 1 trong 4 Tánh Phật ấy, khi thuần thục dòng quét của Điện từ Âm – Dương không quét được. Được như vây, Phật Tánh được tự tại rồi đó, chưa rơi vào Trung tâm vân hành luân hồi được.
Vì sao vậy?
– Vỏ bọc Tánh Phật chưa tạo được lực rơi.
Tạo ra lực rơi bằng cách nào?
– Bằng cách là phải tạo ra Công đức, để vỏ bọc Tánh Phật nặng mà rơi vào Trung Tâm vân hành luân hồi. Để từ đây, Tánh Phật nhìn thấy được 6 cửa luân hồi và 2 cửa Hải Triều Âm và Hải Triều Dương:
Công dụng của các cửa như sau:
1/- Sáu cửa luân hồi đi 6 nẻo trong Tam giới này.
2/- Cửa Hải Triều Âm, là nơi trước kia Tánh Phật đã bị hút vào.
3/- Cửa Hải Triều Dương, là cửa đẩy Tánh Phật sẽ trở về Bể Tánh Thanh Tịnh, là nơi Thế Giới Mười phương chư Phật sống, quí Ngài gọi là “Phật giới”.
Hai: Sử dụng Thân và Tâm duyên hợp của vật [ý, thì mãi mãi đi trong Lục Đạo luân hồi.
Ở trong Thế Giới vật lý Ấm Dương này:
– Dù có nói giỏi, giảng kinh hay đến cỡ nào.
– Dụng công ngồi thiền 1 ngàn năm hay lâu vạn lần đi nữa.
– Xưng mình là ông Thần bà Thánh, hay cao hơn.
Chỉ là việc làm trong Thế Giới Nhân – Quả này, để khoe cùng thiên hạ để kiếm danh và tiền, chứ không ngoài gì khác.
Đức Phật có dạy:
– Ngày xưa, Ngài Trí Thông Chí Thắng, dụng công ngồi thiền ở Đạo tràng đến 10 tiểu kiếp mà Phật Tánh cũng không hiển lộ. Đợi đến khi Đức Phật Tỳ Khí chi dạy Ngài có 5 phút thôi, mà Ngài nhận ra Phật Tánh của chính Ngài.
Ngày nay, có ai ngồi thiền bằng Ngài Trí Thông Chí Thắng không, mà không chịu rút kinh nghiệm của Ngài, học lời của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni dạy nơi Thế Giới này, để nhận ra Phật Tánh của chính mình.
 
Câu 25: Thiền Tông không có Từ Bi, Hỷ Xả; Mà duy nhất là dạy cho người nào muốn Giải Thoát; Còn người không muốn, Đức Phật không năn ni, Vì vậy, trong Thiền Tông không có danh từ: Từ Bi, Hỷ Xả.
 
Câu 26: Thiền Tông không có Bi, Tri, Dũng; Bi, Tri, Dũng là của những vị tu hành có hơn thua, đem Bi, Trí, Dũng ra để thực hành 3 việc:
Một là, Ta là người Từ Bi, ai muốn giúp gì, lại Ta giúp cho, nhưng phải “biết điều” với ta.
Hai là, Ta là người có Trí thật cao, ai muốn học hỏi gì, lại Ta dạy cho, nhưng phải “hiểu nguyên tắc” vật lý.
Ba là, Ta là người Dũng mãnh, không ai phá được, người nào muốn học, lại đây ta dạy cho, nhưng phải biết “căn bản sự sống” nơi Thế Giới này.
 
Câu 27: Trả lời về Trung Ấm Thân:
– Muốn hiểu Trung Ấm Thân của con người, thì phải hiểu toàn bộ trong Càn khôn Vũ trụ này, thì mới hiểu nguyên nhân có Trung Ấm Thân được.
– Càn khôn Vũ trụ là nói không gian không bỉên giới, trong đó có sự sống chia ra làm 2 nơi rõ rệt:
Nơi thứ nhất:
– Bể Tánh Thanh Tịnh Phật Tánh, cũng gọi là Phật giới. Trong Phật giới có căn bản 4 thứ:
1/- Tánh Phật: Tánh Phật này, có Hằng hà sa số cá thể,vkhông thể sử dụng con số tính của loài người nơ Thế Giới này mà tính ra hết được. Trong mỗi Tánh Phật có cái Ý; Cái Ý này nó hằng: Thấy – Nghe – Nói – Biết.
2/- Nơi có Hằng hà sa số những vị Phật sống. Con số quá nhiều như vậy, nên Đức Phật Thích Ca Mâu Ni goi là “Thế Giới Mười phương chư Phật”.
3- Có Điện từ Quang trùm khắp; Điện từ Quang này có công dụng như sau:
A- Làm vỏ bọc cho mỗi Tánh Phật.
B- Định hình ra 1 ngôi nhà Pháp thân Thanh Tịnh cho mỗi vị Phật.
C- Tạo ra 1 Kim Thân Phật.
D- Chuyên chở: Thấy – Nghe – Nói – Biết của cái Ý trong Tánh Phật đi xa và thu gần lại.
E- Làm sự sống cho mỗi Tánh Phật.
G- Tồn tại của Phật giới là nhờ Điện từ Quang này.
Nơi thứ hai:
– Tam giới: Trong 1 Tam giới có 1 Trung tâm và 4 Vùng:
Trung Tâm: Gọi là Trung tâm sưởi ấm: Do 1 hành tinh lửa làm Trung tâm, mà loài người gọi là “Mặt trời”. Mặt trời này, làm trung tâm, là nơi sưởi ấm cho 4 vùng như dưới đây:
Vùng 1: Có 6 hành tinh cấu tạo bằng tứ đại, gọi là Địa cầu.
Vùng 2: Có 10 hành tinh cấu tạo bằng Điện từ Âm – Dương có 5 màu sắc thật đậm, gọi là Cõi Trời Dục giới.
Một hành tinh cùng cấu tạo băng 5 màu sắc Điện từ Âm – Dương rất đậm, hành tinh này gọi là Cõi Trời Thượng Đế, hay Ngọc Hoàng.
Vì sao gọi như vậy?
– Vì những vị Trời sông ở hành tinh này phân chia ra làm 4 giai cấp:
1/- Giai cấp thông trị, gọi là giai cấp trong dòng tộc của Chúa Trời.
2/- Giai cấp “Phụ tá” Chúa Trời.
3/- Giai cấp “Đại diện” Chúa Trời.
4/- Giai cấp “Con Chiên”.
Vì Cõi Trời này có 4 giai cấp như vậy, nên những vị Trời sống ở Cõi Trời Thượng Đế này, có lập ra 12 ban “Thánh”, mỗi vị Thánh phụ trách 1 ban, để điều hành ban mình. Trong 12 ban Thánh này, có 2 ban đặc biệt:
1/- Ban phụ trách “Kỷ luật” của Cõi Trời này.
2/- Ban phụ trách “An ninh” Cõi Trời này.
Hai ban này thi hành rất nghiêm nhiệm vụ của mình. Vì vậy, tất cả những vị Trời sống ở hành tinh này phải nghiêm thỉnh chấp hành theo luật ở cõỉ Trời này.
Vùng 3/1: Có 11 hành tinh gọi là Cõi Trời Hữu sắc.
Vùng 3/2: Có 6 hành tinh gọi là Lục quốc Tịnh Độ.
Vùng 4: Có 11 hành tinh gọi là Cõi Trời Vô sắc.
(Bốn vùng này xem ừong quyển Sách Trăng Thiền Tông có nêu rất rõ ràng).
Trước khi biết hình thành ra Trung Ấm Thân, thì phải hiểu đầu đuôi như sau:
Đầu tiên:
– Tánh Phật ở trong Bể Tánh Thanh Tịnh Phật Tánh. Nhìn xuyên qua cái “bức tường ngăn cách giữa Bể Tánh Thanh Tịnh Phật Tánh và 1 Tam giới”. Bức tường này cấu tạo bằng Điện từ cực Dương, tác cực mạnh, để không cho các Tam giới có khoảng cách an toàn. Điện từ cực Dương nó rất trong suốt. Tuy trong suốt, nhưng ngăn cách giữa Bể Tánh Thanh Tịnh của Phật giới và Tam giới, không cho bất cứ thứ xâm nhập vào hay thoát ra được.
– Tánh Phật nhìn thấy trong Tam giới có rất nhiều loài sinh sống, nên lần theo chung quanh cái bức tường này. Khi vừa đến “Lỗ hút Âm”, Tánh Phật bị hút vào cái lỗ hút này, Tánh Phật nghe tiếng rích rất lớn, nên gọi là cửa “Hải Triều Âm”. Tánh Phật vừa qua cái Lỗ hút Âm này, bị lực đẩy ly tâm nên văng vào Thế Giới loài người.
– Vào Thế Giới loài người, Tánh Phật biết mình đang ở trong Thế Giới loài người, nên lần mò tìm đường trở về Bế Tánh Thanh Tịnh Phật giới. Tánh Phật cứ lần mò đi tìm cửa để ra, nhưng tìm hoài không được.
Vì sao vậy?
– Vì Tánh Phật hiện đang ở trong dòng quét của Điện từ Âm – Dương, nên không thấy được cửa ra. Vì không thấy cửa ra, nên Tánh Phật cứ lang thang tìm hoài. Bất ngờ, Tanh Phật nhìn thấy 1 đôi Nam Nữ đang giao hợp lại gần xem Bất ngờ thứ hai, Tánh Phật bị luồng Điện từ Âm – Dương của đôi Nam Nữ này hút vào cửa Âm của người Nữ và rơi vào Tử cung của người Nữ ngủ trong đó.
Đến 9 tháng 10 ngày sau, Tánh Phật được đưa ra ngoài Tử cung của người Nữ. Khi Tánh Phật được đưa ra ngoài phải qua 1 cái cửa rất hẹp. Vì vậy, Tánh Phật bị động, nên Tánh Phật phải la lên, làm 3 cái Tánh: Thấy, Nghe và Biết thức dậy. Bây giờ, Tánh Phật không: Thấy, Nghe, Nói Biết gì nữa, mà chỉ biết đang ở trong thân của 1 con người nhỏ.
Trong thân của con người nhỏ này, có 6 nơi tiếp xúc được với bên ngoài để Tánh Phật: Thấy, Nghe, Nói và Biết như:
1/- Có 2 lỗ con mắt, để Tánh Phật Thấy bên ngoài.
2/- Có 2 lỗ tai, để Tánh Phật Nghe tiếng từ bên ngoài vang vọng đến.
3/- Có 1 lỗ miệng, để Tánh Phật muốn phát ra tiếng, có nơi phát ra.
4/- Có thân tứ đại của con người, để Tánh Phật xúc chạm, Biết bên ngoài.
Vì thân tứ đại của con người có thêm 2 cái lỗ mũi, nên mùi hôi hay thơm từ bên ngoài bay vào, 2 lỗ mũi đều biết.
Vì sao 2 lỗ mũi biết?
– Vì tại 2 lỗ mũi này, có các dây thần kinh tiếp xúc với Trung tâm não bộ, mà Trung tâm não bộ là nơi nhận biết tất cả những sự việc bên ngoài tác động vào.
Cái gì biết?
– Là Tánh Phật biết.
Vì sao Tánh Phật biết?
– Vì Tánh Phật hiện là sự sống của thân con người này, nên cái gì tác động vào thân người Tánh Phật đều biết cả.
Tánh Phật là Tánh Thanh Tịnh và biết tất cả, sao không biết đường thoát ra ngoài thân con người để trở về Bể Tánh Thanh Tịnh Phật Tánh, mà: Thấy, Nghe, Nói và Biết đều bị sai như vậy?
Đến phần này, câu hỏi thứ 27 này sẽ được giải bày ra rõ ràng:
Câu trả lời thứ 27 này như sau:
– Trong Tánh của mỗi con người có đến 16 thứ: 1- Thọ. 2- Tưởng. 3- Hành. 4- Thức. 5- Tài. 6- sắc. 7- Danh. 8- Thực. 9- Thùy. 10- Tham. 11- Sân. 12- Si. 13- Mạn. 14- Nghi, 15- Ác. 16- Kiến.
-Ngoài 16 thứ căn bản của Tánh người nói trên, mỗi thứ hoạt động được là nhờ luồng Điện từ Âm – Dương dẫn máu đi xuyên qua các nơi này. Mà máu đi qua các nơi này, nó nổi lên những cái bong bóng máu. Vì cái bong bóng máu này, mà: Thấy, Nghe, Nói và Biết của Tánh Phật bị sai lệch không còn trung thực nữa.
Vì Tánh Phật: Thấy, Nghe, Nối, Biết không còn trung thực, nên phải sử dụng cái “Tưởng” của Tánh người tưởng tượng ra để biết đường trở về Bể Tánh Thanh Tịnh Phật giới.
Vì là tưởng tượng nên: Thấy, Nghe, Nói và Biết không thể nào đúng được. Không đúng, cho là đúng, nên Tánh Phật đem cái “Thọ” của Tánh người ra nhận lấy, đem vào cất giữ.
Cất giữ ở đâu?
Bắt buộc phải tạo ra cái kho để lưu giữ, cái kho này gọi ià ‘Tàng Thức”, tức cái “Kho hiểu biết”.
Cái kho Tàng Thức này cấu tạo bằng gì?
– Bằng những sợi dây Điện từ Âm – Dương. Vì vậy, cái kho này nó liên tục hoạt động.
– Tánh Phật sử dụng cái Tưởng của Tánh người tưởng tượng ra: Thấy, Nghe, Nói, Biết đem vào kho Tàng Thức này. Khi nhập vào kho, Tánh Phật phải sử dụng cái “Hành” của Tánh người đem vào kho, gọi là “Nhập vào kho Tàng Thức”.
– Tánh Phật muốn nhớ lại những gì mà Tánh Phật đem vào kho Tàng Thức, thì Tánh Phật phải sử dụng cái Hành của Tánh người kéo ra để nhớ, gọi là “Xuất ngoại kho Tàng Thức’.
Những thứ trong kho Tàng Thức này, nó cứ di chuyển liên tục như vậy, nên vỏ bọc Tánh người bị lão hóa, túc già đi, nên vỏ bọc Tánh người không kiềm giữ nổi nữa cái kho Tàng Thức này. Nên phải buông cái kho Tàng Thức này ra.
Khi vỏ bọc Tánh người vừa buông cái kho Tàng Thức này ra, nó bị lực hút Nhân – Quả nơi Thế Giới vật lý Âm Dương này, cái kho Tàng Thức này, phải luân chuyển theo dòng luân hồi, nên cái kho này biến thành là “Trung Ấm Thân”.
Vì sao gọi như vậy?
– Vì cái kho Tàng Thức này, nó đang mang một khối nghiệp thiện và ác. Mà khối nghiệp thiện và ác này là do Tánh Phật sử dụng Tánh người để tưởng tượng ra. Do đó, Tánh Phật phải theo nghiệp tưởng tượng của Tánh Phật mà nhận quả tốt hoặc xấu. Nguyên do như vậy, nên mới có tên gọi “Trung Ấm Thân”.
Đoạn trên đây là trả lời hết từ 1 đến 3, còn số 4 là tồn tại của Trung Ấm Thân là bao lâu.
Trả lời:
– Khi nào Tánh Phật trở về Bể Tánh Thanh Tịnh Phật Tánh thì cái vỏ bọc Trung Ấm Thân này như sau:
– Nếu trong vỏ bọc Trung Ấm Thân này không có nghiệp Phước thiện và nghiệp ác đức, thì vỏ bọc Trung Ấm Thân này tự mất, tức dòng Điện từ Âm – Dương nó tự trở về “ngôi vị” của nó không còn là Trung Ấm Thân nữa. Giống như bão vậy, khi đủ duyên hợp, thì không khí xoay cuốn thành bão. Khi hết lực xoay cuốn, thì không khí trở về “ngôi vị” của không khí vậy.
– Còn trong vỏ bọc Trung Ấm Thân nếu còn:
A/- Nghiệp Phước thiện, thì vỏ bọc Trung Ấm Thần được hút vào các cõi lành để hưởng nghiệp Phước.
B/- Nghiệp ác, thì vỏ bọc Trung Ấm Thân này, nó bị hút vào các tầng Âm để thọ nhận Nhân – Quả do Tánh Phật sử dụng Tánh người tạo ra.
B/- Còn không tạo nghiệp Phước thiện hay nghiệp ác đức, thì Trung Ấm Thân này cứ lẩn quẩn trong dòng tộc để trả Nhân – Quả với nhau trong dòng tộc thôi.
5/- Về phần nhiệm vụ của Trung Ấm Thân. Trung Ấm Thân không có nhiệm vụ gì cả, mà Trung Ấm Thân chỉ là “sản phẩm” do Tánh Phật tạo ra để kéo Tánh Phật đi trong Lục Đạo luân hồi, chỉ có như vậy thôi, xin nói rõ hơn: Tánh Phật tự tạo ra dòng luân hồi cho Tánh Phật thôi, chứ không ai can thiệp vào đây cả. Nói tóm lại, đầu đuôi chuyện luân hồi hay trở về Bể Tánh Thanh Tịnh Phật giới là do Tánh Phật hết, không có bàn tay “Quyền Năng” nào làm việc này.
6/- Trung Ấm Thân, là do Tánh Phật sử dụng cái “Tưởng” của Tánh người và “Thọ – Hành – Thức” của Tánh người, nên mới có Trung Ấm Thân. Vì có Trung Ấm Thân, nên Tánh Phật sử dụng thêm hết 12 Tánh của con người nữa,nên Tánh Phật bị kẹt cứng trong vỏ bọc Trung Ấm Thân này. Chứ Trung Ấm Thân không ai chi phối nó cả.
7/- Không ai tác động vào Trung Ám Thân được, mà cái Trung Ấm Thân khi được tan rã. Duy nhất, chỉ có vị Phật trong Bể Tánh Thanh Tịnh Phật Tánh theo Tánh Phật trong Trung Ấm Thân này, dạy cho Tánh Phật bị giam trong Trung Ấm Thân này biết Công thức Giải Thoát. Khi Tánh Phật này, thấu triệt được lời dạy của vị Phật luôn theo giúp đở Tánh Phật ở trong vỏ bọc Trung Ấm Thân này. Khi Tánh Phật ở trong vỏ bọc Trung Ấm Thân biết và thực hiện được 2 phần như sau, thì vỏ bọc Trung Ấm Thân mới được tan mất:
A/- Tánh Phật phải hiểu rõ Qui luật Nhân – Quả nơi Thế Giới vật lý Âm Dương này.
B/- Phải biết rõ 3 phần: Công đức – Phước đức – Ác đức.
C/- Tạo ra được Công đức.
D/- Biết được Công thức Giải Thoát.
8/- Trung Ấm Thân là cái vỏ bọc cấu tạo bàng Điện từ Âm – Dương.
Người bình thường hiện tại, ai thật sự tha thiết muốn Giải Thoát. Duy nhất, phải đợi khi nào Huyền Ký của Đức Phật Thích Ca Mâu Ni được công bố ra, tìm đọc cho kỹ tập Huyền Ký này, phải áp dụng cho thật đúng, thì mới mong Giải Thoát được.
Đức Phật dạy rỗ phần Giải Thoát như sau:
– Pháp môn Giải Thoát này, ở Thế Giới loài người 10 ngàn năm mới có 1 vị Phật dạy
– Lưu hành pháp môn Giải Thoát này thời gian là 3.000 năm.
– Lưu hành âm thầm hết 2.900 năm.
– Tổng thời gian lưu hành hiển ra là 100 năm.
– Mỗi lần pháp môn Giải Thoát công bố ra, người Giải Thoát không quá 500 người.
Đức Phật dạy thêm:
– Nơi Thế Giới Nhân – Quả vật lý Âm Dương này: Bất cứ, động vật, thực vật, hữu hình hay vô hình, ở địa cầu này, trong Tam giới này, hay khắp trong Càn khôn Vũ trụ này, đều là do Điện từ Âm – Dương hình thành, duy trì, bảo quản tồn tại và luân chuyển, gọi là luân hồi. Vì vậy, Đức Phật gọi là “Thế Giới luân chuyển vật lý Âm Dương”. Mà trong Thế Giới vật lý Âm Dương, con người sống hoàn toàn lệ thuộc vào nó.
Như Lai nói: Vật lý Âm Dương này là do “Ma Vương” cai quản.
Ma Vương là cái thứ gì?
– Là do sự ham muốn không bờ bến của Tánh con người đó.
Vì vậy, người nào muốn Giải Thoát, đồng nghĩa mình trực diện muốn đối đầu với “bọn Ma Vương” này! Cổ ai dám không? Hay cứ cấm đầu lạy lục người khác xin Giải Thoát?
Thích Ca Văn.
 
Câu 28: Đức Phật, phân thân, hóa thân hay ứng thân chỉ làm có 1 nhiệm vụ là giúp cho ai muốn Giác Ngộ và Giải Thoát:
1/- Phân thân: Từ Kim Thân thật lớn của Như Lai, Ngài lưu xuất ra một Kim Thân rất nhỏ, giống y như hình dáng Kim Thân lớn của Ngài vậy, đến Thế Giới của loài người, thấy có người nào muốn Giác Ngộ và Giải Thoát, Ngài khiến cho người này đến nơi đang dạy pháp môn Thiền Tông, để người này học. Nhờ vậy, người này mới biết Giác Ngộ và Giải Thoát.
2/- Hóa thân: Cũng từ Kim Thân của Đức Phật, Ngài biến hóa ra 1 hình tướng của Ngài, cũng làm như công việc phân thân.
3/- Ứng thân: Cũng từ Kim Thân của Đức Phật, Ngài ứng hiện thân ra một Kim Thân Phật rất nhỏ, cũng làm công việc như phân thân vậy.
 
Câu 29: Người hôn mê phải hiểu như sau: Phật Tánh là sự sống cho loài người và muôn vật. Nếu Phật Tánh còn ở trong Bể Tánh Thanh Tịnh, là sự sống như vậy thôi, tức chỉ: Thấy, Nghe, Nói và Biết. Bốn phần này là như vậy. Khi Phật Tánh bị hút vào địa cầu này. Địa cầu này, là nơi luân chuyến để sanh ra Nhân – Quả Luân hồi theo chu kỳ: Thành – Trụ – Hoại – Diệt, do Điện từ Âm – Dương cuốn hút và kéo đi. Khi Phật Tánh bị hút vào tử cung của người nữ. Tử cung của người nữ nơi Thế Giới Nhân – Quả vật lý Âm Dương này có công dụng như sau:
1/- Làm cho Tánh Phật quên hết những gì mà Phật Tánh: Thấy, Nghe, Nói và Biết.
2/- Nơi nuôi dưỡng noãn của người nữ và tinh của người nam khi hòa hợp với nhau, để dần thành là một thai nhi. Khi tinh của người nam và noãn của người nữ đã hòa hợp với nhau rồi, tức khắc nó chuyển động theo dòng luân hồi, tức quay và hút theo Qui luật vật lý Âm Dương. Thời khấc đầu tiên này, sức hút của tinh nam và noãn nữ rất manh, nên nó tự phát ra sức hút rất xa. Vì vậy, Tánh Phật nghe tiếng hút này mới đến gần xem, chỉ vừa bay đến thôi, là bị sức hút cực mạnh vào tử cung của người nữ, không có cách nào cưỡng lại được. Đây là Qui luật sức hút vật lý Âm Dương này. Tánh Phật vừa vào tử cung của người nữ, tức khắc bị chìm vào giấc ngủ liền. Sau 9 tháng 10 ngày, Tánh Phật bị dính vào da thịt của một đứa trẻ.
Đứa trẻ này, khi được người nữ sinh ra đặt cho nó 1 cái tên và gọi nó là “con”.
Còn con người hôn mê không biết là lý do như sau: Nguyên tắc, con người Tưởng ra rồi suy nghĩ, thì mới hành động được, đủ được như vậy, mới lưu vào Tàng thức, khi nhớ lại, thì phải kéo từ trong Tàng thức ra mới nhớ lại được. Vì vậy, khi con người bị hôn mê, tức Điện từ Âm – Dương đang duy trì Tàng thức này bị rối loạn, nên trong Tàng thức không lưu giữ được, tức thời khắc này, không có gì lưu vào. Vì vậy, người sau khi bình thường, không nhớ gì là vậy.

 
TRÍCH: NHỮNG CÂU HỎI VỀ THIỀN TÔNG 1 (QUYỂN 2)
TÁC GIẢ: THIỀN GIA – SOẠN GIẢ NGUYỄN NHÂN