Ông Trần Công Mỹ hỏi

60- Ông Trần Công Mỹ, TP. HCM, hỏi 30 câu
Ông Trần Công Mỹ sanh năm 1949 tại Nho Quan, tỉnh Ninh Bình, cư ngụ đường 3 tháng 2, quận 11, TP.HCM, hỏi 30 câu:
Câu 1: Tiểu thừa là tu làm sao?
Câu 2: Trung thừa tu như thế nào?
Câu 3: Đại thừa tu thành tựu được gì?
Câu 4: Tịnh Độ tu để được đi về đâu?
Câu 5: Tu Mật Chú được cái gì?
Câu 6: Tu Thiền Tông cũng để được cái gì?
Câu 7 : Thiền Viện là tu gì trong đó?
Câu 8: Tu viện cũng tu gì trong đỏ?
Câu 9: Tại sao gọi là Chùa mà không gọi danh từ khác?
Câu 10: Tu Diệt tận định là tu diệt cái gì?
Câu 11 : Tu Dẹp vọng tưởng là dẹp vọng tưởng nào?
Câu 12: Thiền Minh sát tuệ là sát tuệ nào?
Câu 13: Thiền Tứ niệm xứ ỉà tu niệm bốn xứ nào?
Câu 14: Thiền Quán Tưởng là quán tưởng cái gì?
Câu 15: Thiền Nghi, Tìm là nghi cái gì, và tìm cái gi?
Câu 16: Tu Bát chánh Đạo, là tu sửa 8 con đường chánh nào?
Câu 17: Đạo Phật là do Đức Phật Thích Ca lập nên, sao Ngài dạy đủ chuyện như vậy, như:
– Cúng đủ thứ?
– Cầu đủ chuyện.
– Lạy không cho nghỉ. V.v…
Đức Phật dạy gì kỳ cục vậy?
Câu 18: Nhìn vào Chùa thấy thờ đủ thứ ông, chẳng lẽ Đạo Phật “bá nạp” như vậy sao? Các Chùa sao không tu một pháp môn mà lại nhiều pháp môn như vậy?
Câu 19: Mười Chùa chúng tôi vào hỏi, mỗi thầy nói một kiểu, thầy nào cũng cho mình nói là đúng cả. Vậy làm sao phân biệt ông thầy nào nói đúng?
Câu 20: Tiêu chuẩn của một thiền sư phải như thế nào?
Câu 21 : Ranh giới của một Tam giới cấu tạo bằng gì và bên ngoài Tam giới là gì?
Câu 22: Tiểu thiên Thế Giới bao lớn?
Câu 23: Trung thiên Thế Giới bao to?
Câu 24: Đại thiên Thế Giới tới đâu?
Câu 25: Càn khôn vũ trụ giới hạn ở chỗ nào?
Câu 26: Người tu theo Đạo Phật chết sẽ đi về đâu?
Câu 27: Ngọc Hoàng Thượng Đế ở đâu trong Vũ trụ này?
Câu 28: Thiên đàng ở đâu trong không gian này.
Câu 29: Địa đàng nơi trái đất này?
Câu 30: Người tu theo Đạo Phật, xin đưa chứng minh lời dạy của Đức Phật để chúng tôi tin là đúng?
 
TRẢ LỜI:
Câu 1: Danh từ “Tiểu thừa” có 4 ý nghĩa:
– Một là ngồi dụng công tu trong phạm vi phòng nhỏ.
– Hai là dụng công tu đạt được những hiện tượng lạ, rất nhỏ.
– Ba là pháp môn này Đức Phật dạy ban đầu.
– Bốn là giống như là “cỗ xe chở mà nhỏ vậy”.
 
Câu 2: Danh từ “Trung thừa” có 3 ý nghĩa:
– Một là pháp môn này Đức Phật dạy giữa và Tiểu và Đại thừa, nên gọi là “Trung thừa”.
– Hai là Lý luận rẩt hay, nhưng không có kết quả trong thực tế, tức chỉ là lời nói suông cho vui, người đời gọi là “Triết lý của Đức Phật Thích Ca”.
– Ba là cỗ xe chuyên chở vừa.
 
Câu 3: Danh từ “Đại thừa” có 3 ý nghĩa:
Một là người tu theo pháp môn Đại thừa biết được rất lớn như:
– Biết được nguyên nhân sự sống nơi trái đất này.
– Biết được tại sao trái đất này được sinh tồn.
– Biết được 6 đường đi luân hồi.
– Biết được 1 con đường đi làm thực vật.
– Biết được tổ chức số lượng hành tinh có sự sống.
– Biết được sự sống trong mỗi hành tinh.
– Biết được tuổi thọ cao nhất của người sống trong hành tinh đó.
– Biết được danh từ gọi người sống trong hành tinh đó.
– Biết được sự sống trong mỗi hành tinh hưởng phúc hay làm gì.
– Biết được Công thức đến sống ở mỗi hành tinh.
– Biết được số phận của mình hay người khác làm sẽ bị luân hồi đi đâu trong Tam giới này.
– Biết được trong 1 Tam giới có bao nhiên hành tinh có sự sống.
– Biết được trong một Tiểu thiên Thế Giới có bao nhiêu Tam giới.
– Biết được trong 1 Trung thiên Thế Giới có bao nhiêu Tam giới.
– Biết được trong 1 Đại thiên Thế Giới có bao nhiêu Tam giới. V.v…
Hai là người tu theo Đại thừa biết pháp môn này cao và rộng hơn 2 pháp môn Tiểu và Trung thừa.
Ba là pháp môn Đại thừa được gọi là cổ xe lớn chuyên chở, tức chuyên chở rất nhiều.
 
Câu 4: Tịnh Độ xin giải thích như sau:
– Tịnh là “Thanh Tịnh”.
– Độ là “Đưa qua”.
Đưa qua đâu?
– Đưa người sống nơi Thế Giới vật lý Âm Dương cuốn hút, luân chuyển ồn ào này, chuyển sang qua Thế Giới “Thanh Tịnh” của Đức Phật A Di Đà sinh sống. Thế Giới của Đức Phật A Di Đà nằm ở phía Tây mặt trời, nước này rất vui tươi và Thanh Tịnh, nên Ngài gọi là “Nước Tây Phương Cực Lạc”.
 
Câu 5: Tu Mật chú là sử dụng câu Thần chú để niệm. Người tu pháp môn Mật chú tông này họ muốn có thần thông để làm 2 việc:
– Một là để người khác kính nể.
– Hai là để đi trị bệnh đau nhức hay chảy máu cho người khác.
– Người tu Mật chú tông này, khi hết duyên sống nơi Thế Giới này, họ được vào Thế Giới loài Thần sinh sống.
 
Câu 6: Tu Thiền Tông là không tu gì hết, mà chỉ học cho biết 4 phần:
– Thứ nhất là, biết được Qui luật luân hồi nơi Thế Giới này.
– Thứ hai là, biết Công thức vượt ra ngoài Thế Giới vật lý Âm Dương này.
– Thứ ba là, biết Tánh nào là Tánh Phật và Tánh nào là Tánh người của mình.
– Thứ tư là, biết Công thức Giải Thoát và biết đường trở về “Bể Tánh Thanh Tịnh Phật giới” là nơi trước kia Phật Tánh sống.
Chỉ có như vậy thôi.
 
Câu 7: Thiền Viện:
– Nơi tập trung người vào dụng công ngồi thiền, để mong thành tựu những gì mà người đó ham muốn. Nhưng có 1 điều mà người dụng công ngồi tu này không đạt được cái họ muốn là “Giải Thoát” hay “Thành Phật”. Cái thành tựu của những người vào Thiền Viện tu là được “Thành Thánh – Thành Thần – hoặc thành cái gì đó mà họ ham muốn, nhưng phải ham muốn tột độ và dụng công ngồi quên ăn quên ngủ thì mới thành công được.
 
Câu 8: Tu viện: Nơi ngồi dụng công tu, mục đích chánh là mong được nhìn thấy Đức Chúa Trời, xin Ngài rước về nước Thiên Đàng ở và làm con của Ngài.
 
Câu 9: Danh từ Chùa: có ý nghĩa là bao trùm khắp cả không gian và thời gian. Ở Thế Giới này, bất cứ sử dụng danh từ gì cũng nằm trong hạn hẹp của không gian. Vì vậy, người tu ở trong Chùa mà tu đúng lời dạy của Đức Phật, thì có thành tựu như lời Đức Phật dạy vậy.
 
Câu 10: Tu thiền “Diệt tận định”, là ngồi dụng công, sử dụng tầm duyên hợp của vật lý “Tiêu diệt tận cùng những cái suy nghĩ để vào sống trong cái an định.
 
Câu 11: Tu thiền “Dẹp Vọng tưởng”, là dụng công, sử dụng tâm duyên hợp của vật lý “Dẹp hết những cái vọng tưởng lăng xăng” của người tu.
 
Câu 12: Tu thiền “Minh sát tuệ”, là sử dụng cái “Tánh sáng suốt, tức Tánh Phật” của mình, để “Sát” tất cả những cái “Tuệ tri”, tức hiểu biết của Tánh người. Sát này có 2 phần:
– Một là Sát tất cả các “Vọng tưởng”.
– Hai là Sát lục căn của chính mình là: Sắc – Thanh – Hương – Vị – Xúc – Pháp. Tức không cho 6 trần dính với 6 căn.
Xin nói rõ pháp môn Minh sát tuệ này:
– Đức Phật dạy pháp môn Tiểu thừa có 37 pháp Quán gọi là “37 pháp Quán trợ Đạo”, tức Quán để trợ giúp cho người ngồi dụng công mà sử dụng tâm duyên hợp vật lý của mình, để Quán và Tưởng có thành tựu trong vật lý, trong 37 pháp Quán có pháp Quán Minh sát tuệ này.
Câu chuyện này, ông Tỳ kheo A Na Luật có trình thưa hỏi Đức Phật như sau:
– Kính bạch Đức Thế Tôn: Tại sao người tu phải sử dụng Tánh Phật của mình sát cái Tánh hiểu biết của con người?
Đức Phật dạy:
– Này ông A Na Luật, sở dĩ Như Lai dạy như vậy, là vì Tánh người nó cứ Tưởng và suy nghĩ hoài không chịu “Dừng” lại. Ông thấy đó, như người đã làm Vua nước rồi, mà cũng không chịu “Dừng”, còn đi xâm chiếm nước khác, Tánh của con người nó là Tham như vậy đó. Con người tu hành mà sử dụng Tánh người để tu thì cũng Tham như vậy thôi. Cho nên, Như Lai dụ người tu hành này: Các ông phải sử dụng Tánh Phật sáng suốt, “Sát” tất cả cái Tuệ” khôn lanh của các ông, khi nào cái Tuệ của Tánh người hết, thì Tánh Phật của các ông sẽ lộ ra. Đây là Như Lai muốn dụ những người “ham tu hành” để thành Phật. Như Lai dạy pháp môn này, có khác gì Như Lai dạy các ông niệm Phật hay niệm Chú đâu. Hết niệm là Thanh Tịnh. Mà Thanh Tịnh là Tánh Phật hiện ra. Còn Minh sát Tuệ này cũng vậy, sát hết cái Tuệ của Tánh người, thì Tánh Phật cũng hiện ra. Như Lai lưu ý các ông 1 điều là, cái Vọng tưởng của Tánh người là của Tánh người, không ai mà dẹp hay giết hoặc sát Tánh người được. Sở dĩ Như Lai dạy các ông 37 pháp Quán và Tưởng, là vì dạy các ông tu không hành, các ông không chịu, mà phải tu hành thì các ông mới chịu, còn tu tập bỏ dần dần các ông không chịu. Phải ngồi thiền, dụng công, dẹp cái này, quét cái kia, tưởng cái nọ, để có chứng có đắc thì các ông mới chịu. Vì vậy, Như Lai phải dụ các ông từ từ như vậy.
Chớ Như Lai dạy các ông mấy câu đơn giản như sau để Giải Thoát, thì các ông lại bảo Như Lai là ông Thầy bị điên!
Vậy, các ông tu theo bài kệ 26 câu như sau không bị lầm, còn Giác Ngộ Giải Thoát rất dễ:
Tánh Phật là Tánh của ta
Sống với Tánh Phật được ra luân hồi
Tánh người là Tánh lôi thôi
Đi tìm đi kiếm để rồi trầm luân.

Như Lai dạy ông chi “Dừng”
Các ông “Dừng” được, luân hồi dừng theo
Thiền Tông Như Lai truyền theo
Truyền theo bí mật, truyền theo dòng thiền.

Như Lai chính thức truyền thiền
Ma Ha Ca Diếp là người đủ duyên
Dẫn thiền để truyền hậu lai
Dụng công ngồi hoài là bị trầm luân.
 
Vì vậy:
Muốn hết trầm luân chỉ “Dừng”
“Dừng” được tất cả luân hồi dừng theo
Thiền Thanh bí mật khó theo
Ai mà theo được, hiểm nghèo được qua.

Chính Ta danh hiệu Thích Ca
Dạy người Giải Thoát để về nhà xưa
Các ông: sáng, tối, chiều trưa
Không cần quán, tưởng, không ưa Niết Bàn.

Chỉ cần dẹp chuyện thế gian
Thế gian là chỗ, buộc ràng kéo ta
Ta là Đức Phật Thích Ca
Dạy tu “Nhất tự” để ra luân hồi.

“Nhất tự” là “tu” chữ “Thôi”
Tuy là một chữ hết rồi trầm luân.
 
Câu 13: Tu thiền “Tứ niệm xứ”, là ngồi dụng công, để mơ tưởng hay tưởng nhớ thân duyên hợp của “tứ đại” này, mà lúc nào cũng hằng nhớ như vậy. Danh từ sử dụng tu thiền “Tứ niệm xứ” này gọi là “Tuệ tri”, tức phải nhớ thật rõ ràng như vậy hoài.
 
Câu 14: Thiền Quán và Tưởng: Phải đem vật gì đó để trước mặt, ngồi dụng công, sử dụng tâm duyên hợp của vật lý Quán và Tưởng từ nhỏ ra lớn hay từ ít ra nhiều.
 
Câu 15: Thiền Nghi Tìm: Ngồi dụng công, sử dụng tâm duyên hợp của vật lý, để tìm hữu dụng của vật chất như thế nào hay làm hại loài người ra sao.
 
Câu 16: Tu Bát chánh Đạo: Tìm hiểu 8 con đường đi chánh, để xem đường đi nào dẫn đến đường Giải Thoát.
 
Câu 17: Mục đích chánh của Đạo Phật là dạy ai muốn Giác Ngộ và Giải Thoát đến học để biết Công thức. Nhưng vì loài người ai cũng đang sống trong vòng cuốn hút của Nhân – Quả, luân hồi của vật lý Âm Dương. Mà Đạo Phật, Đức Phật có dạy: Người nào muốn Giác Ngộ và Giải Thoát, thì đến nghe Ngài dạy, còn ai muốn đi trong lục Đạo luân hồi, thì tự nhiên đi. Vì cái không ràng buộc này, mà mới có 12 loại người sau đây nương Đạo Phật để tìm danh và lợi:
Tìm danh có 3 loại người:
1/- Thấy danh từ “Tổ Thiền Tông” oai quá, nên tự xưng mình là “Tổ sư Thiển tông”, mặc dù không biết nhiệm vụ của Tổ Thiền Tông là làm gì và dạy tu như thế nào.
2/- Thấy danh từ “Thiền sư” nhiều người đến lạy, nên tự xưng mình là “Thiền sư”. Mặc dầu không biết nhiệm vụ của “Thiền sư” là gì, cùng vì danh mà tự xưng mình là “Thiền sư” để nhiều người họ đến lạy và cúng tiền.
3/- Nghe danh từ đắc Đạo, người thưởng cho mình là “Thánh”, nên bịa ra nói như sau: Tôi dụng công ngồi thiền 5 phút, sẽ nhìn thấy Đức Phật và nghe Đức Phật dạy Đạo, nên “Tôi” nay đã là “Thánh nhân” rồi. Người không biết gì cho là phải, nên ùn ùn kéo đến lạy và cúng tiền xài không hết.
Tìm lợi có đến 6 loại người:
1/- Tổ chức mỗi ngày lạy 100 lạy.
2/- Tổ chức xuống Địa ngục rước người ở dưới đó lên.
3/- Tổ chức cầu cho người đã chết lên Trời ở.
4/- Tổ chức mỗi bước đi 1 lạy.
5/- Tổ chức cúng đủ thứ.
6/- Tổ chức cầu đủ chuyện.
V.v…
Những phần tổ chức nói trên, mục đích chánh là để lấy tiền của những người không biết sự thật nơi Thế Giới này.
Có người Quản trị Chùa mà còn mang hình hay tượng của những vị Tướng của người Trung Quốc xa xưa thời Tam Quốc vào Chùa mình để thờ nữa. Rồi thêu dệt thêm đủ chuyện gọi là linh thiêng, để dụ những người mê tín đến cúng tiền, chứ không ngoài gì khác.
 
Câu 18: Như nói ở trên, Đạo Phật là Đạo không ép buộc ai, không hù dọa ai, muốn Giải Thoát thì đến nghe, muốn luân hồi đi đâu thì đi, muốn làm tôi tớ cho ai thì cứ tự nhiên.
 
Câu 19: Các Chùa tu không giống nhau là có nguyên do như sau: Đức Phật dạy nơi Thế Giới này có đến 6 pháp môn tu. Tánh của con người có đến 16 thứ, mà cái Tưởng của Tánh người là mạnh nhất, nên ai Tưởng ra như thế nào, thì họ làm như thế ấy. Miễn họ Tưởng và suy nghĩ làm sao có nhiều người đến cúng tiền là được.
Còn đúng hay sai, họ không màng đến.
 
Câu 20: Tiêu chuẩn một vị Thiền sư là họ phải thông tất cả 9 pháp môn tu thiền, dù là của Đạo Phật hay ngoài Đạo Phật. Một Thiền sư đúng chánh thống, thì người đó phải có 2 phần như sau:
– Một là phải được “Phong Thiền Tông sư”, gọi tắt là “Thiền sư”.
– Hai là phải thông suốt pháp môn “Như Lai Thanh Tịnh thiền” của Đức Phật dạy.
 
Câu 21: Ranh giới của 1 Tam giới là do Điện từ Âm – Dương làm ranh giới. Còn bên ngoài 1 Tam giới là “Bể Tánh Thanh Tịnh Phật giới”.
 
Câu 22: Tiểu thiên Thế Giới không nói là bao lớn được.
Vì sao vậy?
Vì đâu có ai đứng ra đo được mà hỏi bao lớn.
Nhưng con mắt “Thiên nhãn” của Phật thấy được 1 Tiểu thiên Thế Giới gồm có 1.000 Tam giới.
 
Câu 23: Trung thiên Thế Giới có 1 tỷ Tam giới.
 
Câu 24: Đại thiên Thế Giới có 1.000 tỷ Tam giới.
 
Câu 25: Càn khôn vũ trụ không giới hạn. Phần này, Đức Phật sử dụng Phật nhãn nhìn hoài mà cũng không thấy biên giới của Vũ trụ, nên Ngài dạy là vũ trụ không biên giới.
 
Câu 26: Hỏi người tu theo Đạo Phật chết đi về đâu. Câu hỏi này không chính xác lắm.
Tuy nhiên, để ông hiểu rõ về lời của Đức Phật dạy chết đi về đâu.
Người tu theo Đạo Phật, hay người không tu theo Đạo Phật, hoặc tu theo các Đạo khác.
Bất cứ ai, đã sống trong Thế Giới Nhân – Quả vật lý Âm Dương này, đều phải tuân theo Qui luật của nó.
Dù cho có 1 vạn “Ông Thượng Đế” cũng không thay đổi được Qui luật Nhân – Quả của Thế Giới này.
Ông Trịnh Công Mỹ xen vào nói:
– Chỉ cần có 1 Ông Thượng Đế là thay đổi được, chứ đâu cần đến 1 vạn ông như vậy?
Ban quản trị Chùa nói:
– Đức Phật có dạy: Vì các ông không biết, nên tưởng rằng Ông Thượng Đế có quyền năng như vậy. Các ông có biết không? Trong 1 Đại Thiên Thế Giới có đến 1.000 tỷ Ông Thượng Đế, mà trong Càn khôn vũ trụ này có “Hằng hà sa số” Tam thiên Đại thiên Thế Giới, đâu có ông Thượng Đế nào làm việc này, mà ông ta cũng chỉ là một ông còn nằm trong quy luật Nhân – Quả Luân hồi cũng như bao nhiêu người khác, thì làm sao ông ta làm được.
Còn người ở Thế Giới này chết sẽ đi về đâu là tự họ quyết định đi, 1 trong 12 con đường như sau:
1/- Muốn về Phật giới sống, thì phải biết Công thức Giải Thoát và hành đúng Công thức này.
2/- Muốn đến sống với Cõi Trời Vô sắc, thì phải biết Công thức và hành đúng Công thức này.
3/- Muốn đến sống với Cõi Trời Hữu sắc, thì phải biết Công thức và hành đúng Công thức này.
4/- Muốn đến sống với nước Tịnh Độ, thì phải biết Công thức và hành đúng Công thức này.
5/- Muốn đến sống với Cõi Trời Dục Giới, thì phải biết Công thức và hành đúng Công thức này.
6/- Muốn đến sống với Cõi Trời Thượng Đế, thì phải biết Công thức và hành đúng Công thức này.
7/- Muốn đến sống với loài Thần, thì phải biết Công thức và hành đúng Công thức này.
8/- Muốn ở sống trong dòng tộc hoài, thì cũng phải biết Công thức của nó.
9/- Muốn làm loài Ngạ Quỷ, thì cũng phải biết Công thức của nó.
10/- Muốn làm loài Súc Sanh, thì cũng phải biết Công thức của nó.
11/- Muốn vào Địa Ngục ở, thì cũng phải biết Công thức của nó.
12/- Muốn sống với loài Thực Vật, thì cũng phải biết Công thức của nó.
Nơi Thế Giới Nhân – Quả vật lý luân hồi do Điện từ Âm – Dương luân chuyển và kéo đi, không có bất cứ ai sửa Qui luật này được. Ai mà nói mình làm được, trong kinh “Vượt Hải Triều Dương” Đức Phật có dạy: Người đó là kẻ đại lường gạt mình đó, nên tránh xa họ ra!
 
Câu 27: Ngọc Hoàng cũng gọi là Thượng Đế, vị này cai quản Cõi Trời “Thượng Đế”; Cõi Trời Thượng Đế này nằm ở “Vùng 2 xung quanh mặt trời”. Vùng 2 này được gọi là “Cõi Trời Dục Giới” có đến 11 hành tinh cấu tạo bằng 5 màu sắc Điện từ Âm – Dương rất đậm. Vì cấu tạo băng Điện từ Âm – Dương rất đậm, cường lực nó rất mạnh, nên gọi là “Cực Dục”. Trong mỗi Hệ mặt trời có tất cả là 4 vùng. Một mặt trời và 4 vùng này, gọi là “Một Tam giới”.
 
Câu 28: Thiên đàng, tức “Đường đi trên các Cõi Trời, 2 bên đường đi này có cây cảnh hoa lá rất đẹp, nên gọi đường này là “Thiên đàng”, tức đường đi trên trời.
 
Câu 29: Ở nơi mặt đất này, bất cứ ở đâu mà có con đường đi mà mặt đường rất đẹp. Hai bên đường có phong cảnh tuyệt đẹp, đường này được gọi là “Địa đàng”.
Còn theo Đạo Thiên Chúa nói: Vườn Địa đàng, nơi Đức Chúa Trời lập ra cho ông A Dam và bà EVa sinh sống. Theo sưu tầm của chúng tôi, Địa đàng này nó nằm tại vùng “Sừng Phi Châu”, nay thuộc nước Yémen.
 
Câu 30: Chứng minh lời của Đức Phật dạy là Chân lý, chúng tôi đưa ra 6 cái chứng minh như sau:
Một: “Nhân – Quả”.
Hai: “Luân hồi”.
Ba: “Điện từ”.
Bốn: “Âm Dương”.
Năm: “Vật lý”.
Sáu: “Tồn tại”
Chứng minh thật rõ như sau:
1/- Nhân – Quả: Trên đời này, bất cứ việc gì hình thành ra, đều phải như sau:
– Tưởng tượng, suy nghĩ, là đầu tiên. Tức cái Nhân ban đầu.
– Bắt tay vào làm xong, là có kết Quả.
Hai danh từ này gọi chung là Nhân – Quả.
2/- Luân hồi: Mọi sự mọi vật trên trái đất này, nó phải luân chuyển, tức “luân hồi”, không đứng yên một chỗ được.
Lớn lao như hành tinh, còn nhỏ nhất là điện tử. Cái nào nó cũng phải luân hồi cả.
3/- Điện từ: Dù vật lớn hay vật nhỏ gì, đều do Điện từ cuốn hút luân chuyển để tồn tại. Lớn như trái đất. Nhỏ như vi trùng, không động vật hay thực vật nào thoát ra ngoài định luật này được.
4/- Âm Dương: Từ loài người, cho đến tất cả các loài động vật hay thực vật, đều phải sống theo Qui luật vật lý Âm Dương để sinh hóa, chứ không loài nào thoát ra ngoài định luật này được.
5/- Vật lý: Những hiện tượng xảy ra hằng ngày, là một cách tự nhiên, hoặc do con người tạo ra, chớ không “Bàn tay quyền năng” nào làm ra việc này; mà chỉ có “Bàn tay và khối óc của người có học thức” làm ra thôi.
6/- Tồn tại: Tất cả như loài người, động vật hay thực vật. Loài nào tồn tại cũng phải qua Công thức vật lý Âm Dương, chứ không Công thức nào khác.
 
 
TRÍCH: NHỮNG CÂU HỎI VỀ THIỀN TÔNG 1 (QUYỂN 2)
TÁC GIẢ: THIỀN GIA – SOẠN GIẢ NGUYỄN NHÂN