Ông Trần Quế hỏi

05- Ông Trần Quế, sinh năm 1937, Hoa Kỳ, có hỏi
Ông Trần Quế, sanh năm 1937, tại thành phố Huế, tỉnh Thừa Thiên Huế, cư ngụ tại thành phố Ari Zona, Hoa Kỳ, hỏi:
Kính thưa Trưởng ban, tôi tên Trần Quế, năm nay 73 tuổi. Gia đình tôi không phải tu theo Đạo Phật, nhưng hồi còn ở ghế nhà trường đại học, tôi thích xem sách các tôn giáo như: Thiên Chúa giáo, Khổng giáo, Lão giáo, Phật giáo, v.v…
Đạo giáo nào cũng chỉ có một cách tu, riêng Phật giáo sao tôi thấy quá nhiều lối tu như:
– Gõ mõ tụng kinh.
– Cầu siêu, cầu an.
– Ngồi thiền quán tưởng.
– Quán thoại đầu.
– Thiền Mật tông.
– Tịnh Độ tông.
– Thiền Nguyên thủy.
– Thiền Phát triển.
– Thiền Tông.
– v..v
Trong sách viết tu theo Thiền Tông rất nhiều người ngộ Đạo. Nhưng tôi không thấy các Ngài dạy cách tu. Tôi có đem ý này hỏi vài Chùa, nhưng tôi không được trả lời. Tôi đọc được quyển sách “Tu Theo Pháp Môn Nào Của Đạo Phật, Dễ Giác Ngộ” của soạn giả Nguyễn Nhân. Thấy lời tựa, tôi đọc ngay và đọc đi đọc lại rất nhiều lần. Lời giảng giải của Thầy trong sách thật tình quá hay, quá rõ, không chê vào đâu được. Hôm nay, tôi đến đây xin hỏi Thầy hai câu hỏi như sau, xin Thầy đừng từ chối, cám ơn:
Câu 1:
– Công thức tu theo Thiền Tông phải dụng công như thế nào để nhận ra Phật Tánh Thanh Tịnh của chính mình?
Câu 2:
– Khi người nhận ra Phật Tánh được diễn tả trạng thái như thế nào?

Trưởng Ban Quản trị Chùa thốt lên:
– Phật ơi! Hai câu hỏi của ông quá cao, tôi khó trả lời quá! Nhưng ông hỏi để tu, hay để bổ túc kho tàng kiến thức của ông?
Ông Trần Quế trả lời:
– Tôi hỏi để tu, tôi có thể sống thêm vài năm nữa là cùng, học hỏi thêm kiến thức để làm gì, khi mình bỏ thân này có mang kiến thức theo được đâu? Nêu Thầy hướng dẫn rành mạch cho tôi hiểu, tôi nhất quyết thực hành đến nơi đến chốn, tôi nguyện mang ơn Thầy mãi mãi.

Trưởng ban nói:
– Có thể nói, từ trước đến nay, những người đi tìm hiểu Đạo Phật không ai có quyết tâm như ông. Người có quyết tâm như vậy, chắc chắn sẽ có kết quả tốt, nhưng tôi nói ra sợ ông không thực hành được.
Ông Trần Quế nói:
– Dù khó đến đâu tôi cũng nhất quyết thực hiện cho bằng được. Vì tôi lớn tuổi rồi, sống nay, chết mai, nếu hiểu được pháp môn tu theo Thiền Tông mà được Giác Ngộ và Giải Thoát, là tôi cố gắng thực hành, vì từ trước đến nay tôi có đi hỏi nhiều nơi nhưng không nơi nào chỉ dạy.

Trưởng ban nói:
– Ông muốn tu theo pháp môn Thiền Tông, phải chấp nhận đảo lộn tất cả những sự hiểu biết bình thường của ông từ trước đến nay, nếu ông chịu, tôi mới nói.
Ông Trần Quế thưa:
– Kính thưa Trưởng ban, tôi rất tin tưởng Thầy, vì Thầy giải thích nhiều câu hỏi có thể nói là hóc búa, có lúc tôi ngỡ Thầy không khi nào trả lời được, nhưng Thầy trả lời quá dễ dàng.

Trưởng ban trả lời hai câu hỏi của ông Trần Quế:
Câu 1: Đây là “Công thức” tu theo Thiền Tông của Đạo Phật:
Về ăn uống:
Phải ăn uống làm sao cho cơ thể của ông được quân bình âm dương. Nếu ông ăn uống mà cơ thể được quân bình âm dương rồi, thì việc tu theo Thiền Tông coi như đã đat được 50% hiệu quả. Vì âm dương được quân bình thì vận hành Tánh người của ông, nói rõ hơn là các tế bào trong thân ông được trở về trạng thái cân bằng, nếu lỡ bị bệnh sẽ hết, dù bệnh gì cũng hết.
Cách ăn theo âm dương được lý giải như sau: Như chiếc tàu chở nặng quá (âm) bị chìm! Còn chở nhẹ quá (dương) gió thổi hay sóng đánh mạnh bị lật! Còn trung bình sẽ nghe êm ái, dễ di chuyển. Tôi sẽ tặng Thầy “Cẩm nang ăn uống” để tu theo Thiền Tông.
Về thực hành:
– Ông dẹp bỏ tất cả những khuôn phép mà ông cho là đúng, cho là hay, học ở người này, bạn kia, v.v…
– Ông dẹp bỏ tất cả dụng công tu như ngồi thiền, quán tưởng, quán thoại đầu, v.v… hay bất cứ theo hình thức nào khác.
– Ông dẹp bỏ tất cả những kiến thức mà ông huân tập từ trước đến nay.
– Ông bỏ tất cả hai bên là phải, quấy, hơn, thua, buồn, thương, giận, ghét, v.v…
– Về Thấy và Nghe của ông, vì từ trước đến nay, khi ông Thấy và Nghe, rồi phân biệt bằng Tánh người, cũng gọi là Tánh Phàm tình. Nên lúc nào ông cũng chạy theo cái Thấy và tiếng Nghe của vật lý, rồi phân biệt ra: Hay, dỡ, phải, trái, v.v…, rồi sanh ra đủ thứ chuyện trên đời.
Nay, ông phải tập cho cái hằng Thấy và hằng Nghe của Ý nằm trong Tánh Phật. Những cái hàng Thấy hằng Nghe, hai thứ này nó ở đâu?
Tôi nói cho ông rõ: Hai thứ này là của cái Ý, mà cái Ý này nói đủ là có 4 thứ: Thấy, Nghe, Nói và Biết. Bốn thứ này nó nằm trong vỏ bọc cấu tạo bằng Điện từ Quang; Điện từ Quang là loại Điện từ Thanh Tịnh. Do đó: Thấy, Nghe, Nói và Biết, nó phải tự nhiên Thanh Tịnh; vì là Thanh Tịnh nên được trùm khắp.
Trưởng ban nói tiếp:
Ông muốn tu Thanh Tịnh thiền thì chỉ cần tu tập như sau:
– Một: Khi có tiếng, ông liền Nghe có tiếng, tiếng đi qua rồi, ông Nghe không tiếng, đó là Ý ông đang Nghe.
– Hai: Khi có hình tướng, ông liền Thấy có hình tướng, cái hay Thấy của ông như vậy là của Ý hằng Thấy.
– Ba: Cái Ý hay phát ra tiếng, tiếng này gọi là Pháp, khi ông nói, cứ việc nói cho người đối diện biết là đủ, Ông đừng dính theo tiếng nói của mình, đó là tiếng nói còn trong Thanh Tịnh, mà Đức Phật gọi là tiếng nói trong Niết Bàn.
– Bốn: Cái hay Biết trong Ý nó lúc nào cũng hằng Biết, đừng duyên theo Thấy, Nghe hay Tiếng, là cái hằng Biết của Ý trong Tánh Phật. Nếu ông Thấy, Nghe hay Nói mà chạy theo các thứ này, Đức Phật gọi là chạy theo luân hồi do sức hút của vật lý Âm Dương.
Tu theo Thiền Tông, ông phải hiểu 4 căn bản trên thì mới tu đúng được, còn không hiểu căn bản này, dù ông có dụng công tu theo hành theo kiểu gì một ngàn năm sau cũng không ăn thua gì.
Ông Trần Quế hỏi:
– Như vậy phải tu tập như thế nào để đúng với pháp môn Thiền Tông?

Trưởng ban trả lời:
Ngủ thì thôi, vừa mở mát ra, vừa thấy, liền biết mình có cái hay Thấy, vừa nghe, biết mình có cái hay Nghe, không dính bất cứ trần cảnh nào, đừng lìa phút giây nào cả, đó là ông đang tập cho Tánh hay Thấy và Tánh hay Nghe của ông, ông tu tập được như vậy, từ từ trở về Tánh Thanh Tịnh của chính ông đó.
Từ ngàn xưa nó là như vậy, không ai làm ra, không ai tạo thành, nó vốn là Thanh Tịnh, nó vốn là trùm khắp, nó vốn là đầy đủ, sự sống của nó là nhờ Điện từ Quang.
Vì chỗ loài người không biết đó, nên ai cũng sử dụng cái Tưởng của Tánh người, suy nghĩ rồi tưởng tượng ra sai lệch, nên bị trôi lăn trong sáu nẻo luân hồi không ngày cùng.
Khi ông tu theo Thiền Tông mà thành tựu rồi, ông sẽ nhận ra các cái Tánh chân thật của mình, nhờ đó ông không lầm lẫn nữa. Nếu những điều mà chúng tôi nói, ông thực hành được, thì ông không bị luân hồi.
Còn hiện tại, ông đang sống với thân tứ đại này, các cái thứ trong Phật Tánh, nó phải nhờ các căn để Thấy, Nghe, Nói. Khi nào ông hết duyên sống nơi Thế Giới này, thì vỏ bọc của Tánh người nhả vỏ bọc Tánh Phật của ông ra. Nếu trong vỏ bọc Tánh Phật của ông chứa hoàn toàn Công đức, thì cái vỏ bọc Tánh Phật gọi là “Như Lai tàng”, tức cái kho chứa hoàn toàn Công đức và Tánh Phật. Duy nhất, cái Như Lai tàng này tự động nó được rơi vào “Trung tâm vận hành luân hồi”. Từ đây, Tánh Phật mới nhìn thấy 6 đường luân hồi và 2 cửa Hải Triều Âm và Hải Triều Dương. Phật Tánh vượt qua cửa Hải Triều Dương để trở về Phật giới.
Nếu trong vỏ bọc Tánh Phật của ông không có Công đức, thì khối nghiệp thiện hay ác này nó tự động chuvền thành “Trung Ấm Thân”. Cái Trung Ấm Thân này nó bị lực hút Nhân – Quả của Thế Giới này mà đi thọ hưởng hay lãnh quả báo.
Câu 2: Khi các thứ nơi Ý nằm trong Tánh hiển lộ. Tôi lấy một ví dụ về cái vui thấp để ông nghiền ngẫm:
Bình sanh, có lần nào ông làm Phước, được người nhận cám ơn và các người chung quanh tán thưởng, ông nghe lòng mình an vui thầm lặng, nhưng không dao động đến mấy ngày liền, nếu ông thấy mình được an vui là sai, đó là ý thức của Tánh Người vui chứ không phải Tánh trong Phật vui.
Cái vui của Ý trong Tánh Phật như sau:
Khi cái vui của Ý trong Tánh Phật Thanh Tịnh vui, thì: Như ông hiện giờ ông đang sống ở trong bầu không khí bị ô nhiễm, ngột ngạt, nhiệt độ oi bức, bụi bặm, tầm nhìn bị che khuất, cộng với biết bao cảnh vật không vừa ý. Bất ngờ, bầu không khí ông đang hít thở trở nên trong sạch, nhiệt độ mát mẽ, tầm nhìn thông suốt, tất cả cảnh vật đều vừa ý, nghe rất vui khỏe, ông cảm nhận cái an vui ấy, tự ông biết, chớ không dùng văn tự hay lời nói mà diễn tả được. Bởi vậy, người xưa có nói: “Khi đến chỗ an vui đó, như người uống nước nóng lạnh tự biết”.
Ông Trần Quế lại hỏi:
Như vậy, việc làm hằng ngày của tôi phải như thế nào?

Trưởng ban trả lời:
– Việc làm hằng ngày của ông như sau: Hằng ngày, ông làm việc gì, cứ chăm chú việc đó mà làm, không suy nghĩ việc khác, ông tập được như vậy, khi thuần thục, tự nhiên việc làm của ông hết sức hoàn thiện.
Trưởng ban nói thêm:
Việc làm để tích Công đức và Phước đức, ông phải thực hiện như sau:
1/- Khi ông làm từ thiện, tâm vật lý của ông cứ tự nhiên Thanh Tịnh, đừng khởi ra suy nghĩ gì cả.
Vì sao không được suy nghĩ?
– Vì khi ông giúp đỡ người khác mà có suy nghĩ kèm vào, thì đường dây luân hồi sẽ được thiết lập ngay!
Nếu ông suy nghĩ thanh cao, làn sóng Điện từ Dương trong Tánh người của ông sẽ phát ra tần số thanh cao, khi ông tích lũy thật nhiều, tần sóng ấy sẽ dẫn khối nghiệp và Tánh Phật của ông. (khối nghiệp và Tánh Phật của ông chuyển thể là “Trung Ấm Thân”) hút lên các Cõi Trời tương đương việc làm Phước thiện và cầu mong của ông.
Khi ông làm thiện, mà tâm ông hay nóng giận, thì ông tự tạo ra làn sóng Điện từ Âm hút Trung Ấm Thân của ông vào cõi Thần, gọi là A Tu La.
Nói tóm lại, Tánh người ông phát sanh ra tần số nào là ông hòa nhập vào tần số đó. Đây chính là nghiệp lực tự nhiên của Vũ trụ cuốn hút ông vào cảnh giới đó. Chứ không có bàn tay quyền năng nào sắp xếp hay làm việc này cả.
Còn tâm của ông ở trạng thái “vô sở trụ”, tức không dính mắc bất cứ vào chỗ nào, nên luật Nhân – Quả không cuốn hút được.
Ở trạng thái này, Đức Phật dạy: ai luôn thực hiện được như vậy, lâu ngày sẽ bắt được tần số Thanh Tịnh trong Bể Tánh Thanh Tịnh Phật Tánh của chính mình.
Nếu ông thực hiện được như vậy, lúc này Tánh người của ông tạm mượn thân tứ đại để sinh hoạt vậy thôi.
Ông Trần Quế hỏi:
Xin Trưởng ban phân tích rõ:
Trưởng ban phân tích:
Trong Càn khôn Vũ trụ này có hai loại chánh:
– Những thứ trong Phật Tánh, mà chúng ta gọi là tinh thần, đó là cái Ý trong Tánh Phật.
– Tứ đại và vạn vật, mà chúng ta gọi là sắc uẩn, đó là do cải Ý trong Phật Tánh sử dụng cái Tưởng của Tánh người, suy nghĩ ra nên tạo thành nghiệp.
– Chung quy, cái nghiệp mà có là do Tánh Phật sử dụng 16 thứ của Tánh người mới có,
– Cái nghiệp này, chính là động lực đưa ông cũng như loài người đi trong 6 nẻo luân hồi.
– Ai muốn không bị luân hồi, thì đừng tạo nghiệp, chớ nơi Thế Giới này không có cách nào khác.
– Ai muốn sống với các Tánh trong luân hồi thì suy tưởng, tức không Thanh Tịnh.
Chỉ đơn giản như vậy thôi, còn ai đó bày ra chuyện này, làm ra chuyện nọ là tự mình làm ra Nhân – Quả đó.
Trong kinh Diệu Pháp Liên Hoa Đức Phật có dạy rõ:
– Pháp “Trụ” là ở yên, tức Thanh Tịnh.
– Pháp “Dị” tức theo luân hồi.
Dù pháp có “Trụ” hay “Dị” gì, Phật Tánh vẫn là Phật Tánh, tướng thế gian luân chuyển là của thế gian, ông muốn sống với Tánh nào tùy ý ông, Đức Phật dạy nó là như vậy, ai biết nguyên lý này mới tu theo Đạo Phật mới đúng được.
Đức Phật dạy thật rõ:
– Các tướng Thế gian thường còn là Thế Tôn nói các tướng tự nhiên sinh diệt của vật lý đi theo vòng luân chuyển trong Tam giới này. Vì từ trước đến nay, ông dụng công tu thiền, mà ông ép cho cái Tưởng của Tánh người mất đi. Tánh người là thân vật lý của con người, mà ông ép cho nó mất đi, chẳng khác nào ông sử dụng thân ông ép cho sóng biển không gợn sóng vậy.
Đức Phật dạy như sau:
– Người tu Đạo Giải Thoát, mà sử dụng thân và tâm để tu hành, chẳng khác nào nấu cát mà muốn thành cơm.
– Người tu muốn Giải Thoát, duy nhất phải biết:
1/- Phật Tánh là gì?
2/- Tánh ngưởi là sao?
Hãy nghe Như Lai nói kệ:
Tu thiền đừng kiếm hay tìm
Nhận ra Tánh Phật, sống liền với Y
Dụng công tìm kiếm mà chi
Tánh người vật lý, dẹp chi cho cuồng.
Tánh Phật là Tánh hằng luôn
Thấy, Nghe, Nói, Biết chân thường là đây
Tu thiền phải hiểu chỗ này
Tánh người luân chuyển, Phật thì tịnh thanh.
Như Lai đã dạy rất rành
Tánh người luân chuyển, tà sanh chỗ này
Chân thường Phật Tánh là đây
Chỉ cần Thanh Tịnh, dứt dây luân hồi.
Ông Trần Quế lại xen vào lời Trưởng ban:
– Sao các thầy không dạy chỗ này?
Trưởng ban trả lời:
– Vì quý thầy không biết, còn những vị thầy biết mà không dạy là có nguyên do như sau:
– Nếu dạy rõ chỗ Giải Thoát này, không ai cung phụng cho quí thầy nữa, nên quí thầy không dạy là vậy.
Trưởng ban nói:
– Hôm nay, ông biết được chỗ cao xa này, cũng có nghĩa là vô số đời trước ông đã quyết chí tìm, nên hôm nay mới gặp. Tôi đã hết tình hết lý chỉ cho ông, mong ông cố gắng, đừng đem lời nói của tôi nói bừa bãi không tốt, nếu ông muốn giúp người khác, hãy tìm hiểu kỹ coi người đối diện mình tu theo Đạo Phật họ có muốn Giải Thoát không, nếu muốn thì mới giúp họ, còn người nào tìm hiểu pháp môn Thiền Tông học này để đi kiếm tiền, ông không được phép nói cho người này biết, dù là một một chữ cũng không nói, phần này Đức Lục Tổ dạy rất rõ trong kinh Pháp Bảo Đàn, chúc ông thật nhiều may mắn.
Ông Trần Quế nghe xong rưng rưng nước mắt và hỏi thêm:
– Xin trưởng ban vui lòng sắp xếp theo thứ tự việc tu theo Thiền Tông Đạo Phật, vì tôi là người chỉ hiểu Đạo Phật qua sách kinh chứ tôi chưa hề tu theo Đạo Phật lần nào.
Trưởng ban nói tiếp:
– Đây là căn bản tu theo Thiền Tông:
Thứ nhất: Phải học hỏi, suy tư, và thực tập gọi là VĂN, TƯ, TU.
Thử hai: Phải hiểu TÀI, SẮC, DANH, THỰC, THÙY là cái gì?
Thứ ba: Phải biết SẮC, THỌ, TƯỞNG, HÀNH, THƯC chiều sâu của nó ra làm sao?
Tôi xin giải nghĩa 13 chữ nói trên để ông hiểu, ông muốn tu phải cố gắng, chắc chắn sẽ đạt theo ý nguyện của ông.
– Chữ văn: Đọc kinh điển hoặc nghe lời giảng của pháp sư (phải đúng pháp sư, chứ giảng sư không ăn thua gì).
– Chữ tư: Phải suy tư hiểu nghĩa cho đúng với ý pháp sư nói.
– Chữ tu: Ông phải tu tập đúng ý chánh pháp của Đức Phật đã dạy.
– Chữ tài: Tiền bạc, phải sử dụng cho đúng ý nghĩa của người tu theo Đạo Phật, chứ không phải từ bỏ tiền tài.
– Chữ sắc: về sắc đẹp của nam nữ ông đừng dính mắc vào, còn vật dụng có gì sử dụng nấy, không chê khen.
– Chữ danh: Danh lợi ở thế gian ông xem như ảo ảnh phù du.
– Chữ thực: Ông phải ăn uống triệt để theo phương cách cân bàng âm dương là ông đã giải quyết được 50% của sự tu theo Thiền Tông, gọi là tu thực.
– Chữ thùy: Việc ngủ nghỉ của người tu theo Thiền Tông, đói thì ăn, mệt thì ngủ, không bận bịu trong lòng một chút nào, nhớ đừng ép thân.
– Chữ sắc: Chữ sắc ở phần này không phải là chữ sắc của câu số 5, mà nói toàn bộ cơ thể của ông. Cơ thể khỏe mạnh, tinh thần rất sảng khoái, việc tu theo Thiền Tông rất thuận lợi, vì sắc thân ông được cân bằng, luôn vận hành Thanh Tịnh theo Điện từ Quang. Nhờ Điện từ Quang này, nên thân và tâm vật lý của ông rất nhẹ nhàng.
– Chữ thọ: Tức thọ khổ, thọ vui, hay không khổ không vui, ông không màng đến.
– Chữ tưởng: Cái suy nghĩ, hay tưởng tượng mọi thứ trên đời, mà tưởng trong Thanh Tịnh nên không sanh ra vọng.
– Chữ hành: Đây là vận hành có 2 phần:
Một là Điện từ Quang hành để bảo tồn sự sống của vỏ bọc Tánh Phật.
Hai là Điện từ Âm – Dương hành để bảo vệ từng tế bào một là nói riêng, còn nói chung là tổng thể sắc thân của ông.
Trên đây là 2 phần tồn tại của một con người cũng như tất cả các loài động và thực vật.
Đức Phật dạy:
Khi tâm suy nghĩ, tức vọng tưởng phát ra, nó tạo ra những “chông gai”, nên dòng Điện từ Âm – Dương đang liên tục duy trì cơ thể của ông, nó quét cái suy nghĩ của ông đến nơi ông suy nghĩ, chính đây là luân hồi.
Vì nguyên lý này nên Đức Phật dạy:
Người tu Thanh Tịnh thiền, là để tâm vật lý mình Thanh Tịnh nên “chông gai” không lú ra, do đó Điện từ Âm – Dương nó chỉ quét để duy trì cơ thể thôi.
Vì nguyên lý này, mà Như Lai dạy pháp môn tu Thanh Tịnh thiền là không được dụng công là vậy.
– Chữ thức: Chữ thức này là hiểu biết do sự học hỏi của ông, nên gọi là học thức hay trí thức của vật lý; còn cái Biết của Ý trong Tánh, là cái Biết tự nhiên của Phật Tánh.
Trên đây là 13 phần dành riêng cho người tu theo Thiền Tông để Giác Ngộ và Giải Thoát, nếu ông thực hiện được chắc chắn sẽ có kết quả tốt.
Một lần nữa xin lưu ý ông:
– Ông sử dụng 13 thứ trên ở trạng thái Thanh Tịnh là phải. Nếu ông sử dụng các thứ trên của vật lý Âm Dương dù ông có dụng công thực hành 1.000 năm cũng chẳng đi đến đâu cả.
– Ông tu theo Thiền Tông, khi vọng tưởng nó có hiện ra, kệ nó, không màng đến, ông nhớ đừng dẹp nó.
Vì sao vậy?
Vì vọng tưởng là tự nhiên của vật lý Âm Dương nơi Thế Giới này, nếu ông dẹp, ông bị cái lỗi là vi phạm Nhân – Quả Luân hồi tự nhiên của vật lý.
Các vị đi trong đoàn thốt lên:
– Quá tuyệt! Quá tuyệt! Không ngờ ở nơi xa xôi hẻo lánh này lại có vị thông làu và giải nghĩa tu theo Thiền Tông học rất rõ ràng và tường tận như vầy.
Có nhiều vị không cầm được nước mắt và thốt lên: “Chúng tôi đi tìm lời dạy của Đức Phật, không đâu giảng rõ, đến đây, chúng tôi như vào “Bể giáo lý Thiền Tông”. Chúng tôi đã ghi rõ từng lời, từng câu của Trưởng ban giải nghĩa, nhất định về áp dụng ngay Công thức tu Thiền Tông này, nhất là tu Thực và tu Tập. Một lần nữa chúng tôi xin hết lòng cám ơn Trưởng ban.
Riêng ông Trần Quế cúi đầu và khóc và hỏi thêm:
– Trưởng ban đã trả lời cho chúng tôi rõ ràng và sâu sắc. Vậy, xin phép cho chúng tôi hỏi thêm 2 câu nữa, ông hỏi:
– Tôi đi hỏi các nơi: người tu theo các pháp môn dụng công tu thiền, niệm Phật và niệm Chú, quí thầy dạy xong rồi, khuyên về nhà tu. Còn ở đây, chúng tôi hỏi gì đều được trả lời thật rõ.
 
Vậy, xin cho hỏi thêm 2 câu:
Câu 1: Khi chúng tôi nghe Trưởng ban giải thích, chúng tôi về nhà thực hành, khi thành tựu phải làm sao?
Câu 2: Xin giải thích rõ pháp môn Thiền Tông này và các pháp tu khác, sử dụng danh từ gì cho đúng?

Trưởng ban trả lời:
Câu 1: Vị nào tu theo pháp môn Thiền Tông được chia ra làm 3 phần chánh:
– Một là, hiểu căn bản pháp môn Thiền Tông học, nếu có yêu càu Chùa Thiền Tông Tân Diệu cấp giấy, thì quí vị được cấp giấy chúng nhận “Giác Ngộ Yếu chỉ Thiền Tông”.
– Hai là, vị nào giải thích được tất cả các danh từ của Đức Phật dạy, nếu có yêu cầu chúng tôi cấp giấy, thì quí vị phải qua “Ban kiểm thiền” cho quí vị biết 3 phần như sau:
1/- Yêu cầu quí vị: Khi quí vị ở trong “trạng thái Thanh Tịnh” mà có thơ hay kệ lưu xuất ra ít nhất là 12 câu, nói lên được chỗ sâu mầu của pháp môn Thiền Tông học này.
2/- Đưa cho quí vị 26 câu hỏi về pháp môn Thiền Tông học này, nếu quí vị trả lời đúng trên 60%, thì quí vị xem như đã đạt được.
3/- Sau cùng, quí vị phải làm giải trình nguyên do mình hiểu pháp môn Thiền Tông học này.
Trong 3 trường hợp trên, nếu quí vị đạt cả 3, thì quí vị được cấp một “Bằng chứng nhận là đạt được Bí mật Thiên tông”, thì Ban Quản trị Chùa có bổn phận hành lễ “Truyền Bí mật Thiền Tông” cho quí vị ở nơi thích hợp, tức quí vị được truyền Bí mật Thiền Tông giống như các vị Tổ sư thiền ngày xưa vậy.
Chúng tôi xin nói rõ cho quí vị biết 2 phàn:
Cấp giấy chứng nhận Giác Ngộ Yếu chỉ Thiền Tông bằng 1 tấm giấy màu cứng, khổ A.4, quý vị không mất 1 đồng nào, chúng tôi cũng không nhận của quý vị 1 đồng nào, với bất cứ hình thức gì.
Cấp bằng chứng nhận và truyền Bí mật Thiền Tông thì có 4 loại giấy:
A- 1 tấm bảng gỗ sơn mài màu, khổ 40×3 5cm.
B- 1 tập hành lễ truyền Bí mật Thiền Tông từ 30 đến 40 trang giấy khổ A 4.
C- 1 tập 26 câu trả lời mà Chùa đã hỏi quý vị.
Phần này quý vị cũng không tốn 1 đồng nào.
Phong Thiền Tông sư hay Thiền Tông gia: Vị nào giúp cho trên 30 người Giác Ngộ Yếu chỉ Thiền Tông và trên 15 người đạt được Bí mật Thiền Tông, thì vị này được phong Thiền Tông sư, nếu là tu sỹ; còn cư sỹ hay người bình thường được phong là Thiền Tông gia.
Cấp bằng công nhận đủ tư cách truyền Bí mật Thiền Tông lại cho người sau, thì người này phải có 3 điều kiện như sau:
Một là, vị này phải có đủ Đạo đức và năng lực về pháp môn Thiên tông học này. Tức vị này phải chịu nổi sức công kích của người khác mà không sanh lòng sân hận.
Hai là, phải có tài lực đủ chi cho trên:
– 2000 người Giác Ngộ Yếu chỉ Thiền Tông.
– 200 vị đạt được Bí mật Thiền Tông.
Ông Trần Quế nghe Trưởng ban trả lời hết những câu hỏi của mình, ông hết sức cảm động và cám ơn.

 
TRÍCH: NHỮNG CÂU HỎI VỀ THIỀN TÔNG 1 (QUYỂN 2)
TÁC GIẢ: THIỀN GIA – SOẠN GIẢ NGUYỄN NHÂN